CHỈ ĐỊNH DÙNG THUỐC ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP (15/07/2009)
http://cimsi.org.vn/ChuyenTrang/Default.aspx?action=Detail&newsId=620
(Lồng ghép
bảng phân loại HA của JNC vào)
Các chỉ định dùng thuốc dựa vào giai đoạn THA, yếu tố nguy cơ,
tổn thương cơ quan đích và các bệnh kèm theo được trình bày ở bảng dưới đây:
THA
(Phân loại JNC VI/1997)
|
Nguy cơ nhóm A
|
Nguy cơ nhóm B
|
Nguy cơ nhóm C
|
Bình thường cao
|
Ðiều chỉnh lối sống
|
Ðiều chỉnh lối sống
|
Dùng thuốc
|
Giai đoạn I
|
Ðiều chỉnh lối sống
(có thể đến 12 tháng)
|
Ðiều chỉnh lối sống
(có thể đến 6 tháng)
|
Dùng thuốc
|
Giai đoạn II
|
Dùng thuốc
|
Dùng thuốc
|
Dùng thuốc
|
Giai đoạn III
|
Dùng thuốc
|
Ghi chú:
· Nguy cơ nhóm A:
|
Không
có nguy cơ, không tổn thương cơ quan đích
Không
có bệnh lý tim mạch biểu hiện lâm sàng
|
· Nguy cơ nhóm B:
|
Có ít
nhất một yếu tố nguy cơ (không bao gồm tiểu đường). Không có bệnh lý tim và
tổn thương cơ quan đích
|
· Nguy cơ nhóm C:
|
Tổn
thương cơ quan đích, có bệnh lý tim hoặc tiểu đường, có hoặc không phối hợp
với các yếu tố nguy cơ khác.
|
Nhìn bảng trên ta thấy với nguy cơ nhóm A và nhóm B điều trị
THA ở giai đoạn I trước hết là điều chỉnh lối sống nếu không kết quả thì mới
dùng thuốc. Còn nguy cơ nhóm C thì phải dùng thuốc rất sớm ngay khi huyết áp
chỉ ở mức bình thường cao.
ĐỀ NGHỊ VỀ CÁCH PHÂN GIAI ĐOẠN TĂNG HUYẾT ÁP Ở VIỆT NAM (15/07/2009)
Các phân loại của
TCYTTG (1978 và 1993) phản ánh tương đối sát những thay đổi ở các cơ quan đích
do tăng huyết áp gây ra, nhưng không nói tới các yếu tố nguy cơ và không quy
định số huyết áp trong chỉ định điều trị. Mặt khác, đối với những thể lâm sàng
diễn biến cấp, đột ngột có thể gặp trường hợp từ giai đoạn I chuyển thẳng lên
giai đoạn III, mà nếu theo dõi huyết áp nhiều lần trong ngày thầy thuốc có thể
chặn được với thuốc giảm áp thích hợp cơn tăng huyết áp kịch phát. Cách phân
loai của TCYTTG và Hội Tăng huyết áp Quốc tế (1993) có quy định các mức độ tăng
huyết áp và tăng huyết áp tâm thu đơn độc, nhưng không nói tới các thay đổi ở
cơ quan đích và các yếu tố nguy cơ.
Các phân loại JNC VI có
giá trị thực tế về mặt chiến thuật điều trị Có/Không dùng thuốc, đồng thời
ngoài việc đánh giá các tổn thương cơ quan đích còn có các yếu tố nguy cơ cũng
được tính đến nên điều trị toàn diện hơn. Nhưng JNC V và VI lại không tính tới sự
thay đổi trong ngày và trong suốt quá trình theo dõi bệnh, nên giá trị các giai
đoạn THA cũng chỉ có tính tham khảo. Cho nên, cho dù áp dụng cách phân loại
giai đoạn nào đi nữa, theo dõi huyết áp đều đặn và trong những trường hợp đặc
biệt không hiếm xảy ra như: chóng mặt, nhức đầu, khó thở, ... việc đo huyết áp
nhiều lần trong ngày lại càng cần thiết.
Cả hai cách phân loại đều có thể áp dụng, và khi dùng cách nào
thì cần phải ghi rõ. Tuy nhiên, JNC VI ngày càng có giá trị thực tế khi các yếu
tố nguy cơ đối với bệnh tăng huyết áp đang gia tăng: Xơ vữa động mạch, tiểu
đường, hút thuốc lá, tuổi cao,... và khả năng chẩn đoán các tổn thương ở cơ
quan đích, xác định các yếu tố nguy cơ được cải thiện hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Ðiều tra dịch tễ học đa
trung tâm bệnh tăng huyết áp. Chương trình cấp Bộ Y tế (TCYTTG tài trợ, 1989).
2. A Century of arterial
Hypertension 1896-1996). Edited by Nicolas Postel - Vinay. Wiley 1996.
3. Hypertension Control.
Report of WHO Expert Committee. World Health Organization. Geneva, 1996.
4. Joint National Committee on
Detection, Evaluation and Treatment of High Blood Pressure - The 5th report of
Joint National Committee on Detection, Arch. Int. Med. 1993;153:154-183.
5. The 6th report of
the Joint National Committee on Prevention, Detection, Evaluation and Treatment
of High Blood Pressure. NIH Publication. No 98.4080. November 1997.
MỤC ĐÍCH CỦA LỰA CHỌN SỬ DỤNG THUỐC HẠ ÁP (15/07/2009)
Ðối với bệnh nhân THA cần phải dùng
thuốc thì mục đích việc lựa chọn cho điều trị này là:
·
Hạ được
huyết áp đến mức tối ưu (huyết áp này tùy thuộc vào từng cá thể và cần chú ý
đến huyết áp thích nghi đối với từng người).
·
Giữ
huyết áp ở mức ổn định, không có những cơn tăng đột xuất cũng như không có
những lúc huyết áp hạ quá thấp (độ "trũng" của huyết áp).
·
Giảm
gánh nặng do huyết áp gây ra cho cơ quan đích, tránh làm các cơ quan này tổn
thương và gây tai biến (suy tim trái, tai biến mạch máu não...).
· Chọn được thuốc phù
hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn của THA, thuốc có tác dụng cao, ít tác
dụng phụ.
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA TĂNG HUYẾT ÁP VÀ TỔN THƯƠNG CƠ QUAN ĐÍCH (15/07/2009)
Ðây chính là các yếu tố cần thiết để có chỉ định dùng thuốc
chống THA.
1. Yếu tố
nguy cơ
·
Hút
thuốc lá
·
Rối loạn
chuyển hóa lipid máu
·
Tiểu
đường týp II
·
Tuổi
(trên 60 tuổi)
·
Giới
tính (Nam
giới và nữ giới sau mãn kinh)
·
Tiền sử
gia đình mắc bệnh tim mạch sớm (Nữ < 65 tuổi, Nam < 55 tuổi)
2. Tổn
thương cơ quan đích
·
Tại tim:
+ Dày thất trái
+ Ðau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim cũ
+ Suy tim
+ Ðã từng điều tri tái tưới máu ÐM vành
·
Tai biến
mạch máu não và cơn thiếu máu não thoáng qua
·
Bệnh
động mạch ngoại biên
·
Bệnh lý
thận do huyết áp cao
·
Bệnh
võng mạc
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
CÁC NHÓM THUỐC HẠ ÁP (15/07/2009)
Dựa trên cơ chế tác động có thể chia làm 3 nhóm lớn:
1. Thuốc
lợi tiểu: Thải nước và ion
Na+, làm giảm khối lượng máu lưu thông và
giảm mẫn cảm thành mạch với các amin co mạch gồm các loại sau:
· Thiazides
· Lợi tiểu quai:
Bumetanid, Furosemid
· Lợi tiểu ít thải
Kali: Amilorid, Spironalacton
2. Thuốc
tác động lên thần kinh giao cảm
· Trên đồng vận giao
cảm alpha trung ương: Methyldopa, Clonidin, Guanabenz, Guanfacin... và đồng vận
thụ thể Imidazolin.
· Ức chế adrenergic
ngoại biên: Reserpin, Guanethidin, Guanarel sulfat...
· Ức chế giao cảm
alpha: Prazosin, Doxazonis, Urapidil...
· Ức chế giao cảm beta:
Propranolol, Pindolol, Acebutolol, Atenolol,...
· Ức chế alpha và giao
cảm beta: Labetalol, Carvedilol,...
3. Thuốc
giãn mạch
· Giãn mạch trực tiếp:
Hydralazin, Minoxidil, Nitrat, Pinacidil...
· Ðối kháng canxi:
Nifedipin, Diltiazem, Verapamil...
· Ức chế men chuyển
Angiotensin: Captopril, Enalapril, Lisinopril...
·
Ức chế
thụ thể Angiotensin II: Losartan, Irbesartan..
CÁCH PHÂN LOẠI GIAI ĐOẠN BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP (15/07/2009)
1. Phân loại
theo mức độ tổn thương các cơ quan đích
(Báo cáo của Hội đồng
chuyên viên TCYTTG-1978 và nguyên tắc chỉ dẫn 1993 về điều trị tăng huyết áp
thể nhẹ).
Giai đoạn I: Không có biểu hiện tổn thương các nội
tạng
Giai đoạn II: Có ít nhất một trong các biểu hiện
tổn thương sau đây:
· Phì đại thất trái
(XQ-ÐTÐ-Siêu âm)
· Hẹp một phần hoặc
toàn bộ các động mạch vành
· Protein niệu vi thể,
Protein niệu và/hoặc tăng nhẹ Creatinin huyết tương (1,2-2,0mg/dl).
· Mảng vữa xơ động mạch
tại động mạch chủ hoặc động mạch cảnh, động mạch chậu hoặc động mạch đùi, phát
hiện bằng siêu âm hoặc XQ.
Giai đoạn III: Có đủ các biểu hiện chủ quan và khách
quan do tổn thương nội tạng, bao gồm:
· Tim: Ðau thắt ngực
Nhồi máu cơ tim
Suy tim
·
Não: Tai biến mạch
máu não
Cơn đột quỵ thoảng qua não do tăng huyết áp
Rối loạn tâm thần do tổn thương mạch não (vascular dementia)
·
Mắt: Xuất huyết võng mạc và xuất tiết kèm hoặc không kèm
phù gai mắt (biểu hiện của tăng huyết áp ác tính hoặc tăng huyết áp tiến triển
mạnh).
· Thận:Creatinin huyết
tương > 2,0 mg/dl
Suy thận
· Mạch máu:
Phình tách động mạch
Tắc động mạch có biểu
hiện cơ năng
Cách phân loại
này có tác dụng thực tế đối với điều trị, nhưng không nói tới con số huyết áp,
vì làm hạ huyết áp tới mức mà người bệnh chịu đựng được về mặt triệu chứng chủ
quan và thầy thuốc chấp nhận được là yêu cầu trong thực tế.
2. Phân
loại theo huyết áp
Huyết áp
tâm thu
mmHg
(KPA)
|
Huyết áp
tâm trương
mmHg
(KPA)
|
|
HA bình thường
|
<140
(<18,7) hoặc
|
< 90
(<12,0)
|
Tăng HA nhẹ
|
140-180 (18,7-21,3) hoặc
|
90-150 (12,0-14,0)
|
Phân nhóm THA ranh giới
|
140-160 (18,7-21,3) hoặc
|
90-95 (12,0-12,7)
|
Tăng
HA vừa và nặng
|
>180 (>24,0) hoặc
|
> 105 (> 14,0)
|
Tăng HA tâm thu đơn độc
|
> 140 (> 18,7) và
|
< 90 (< 12,0)
|
Phân nhóm: ranh giới
|
140-160 (18,7-21,3) và
|
< 90 (< 12,0)
|
(WHO/ISH meeting,
Bullentin of the World Health organisation, 1993, 71:503-571)
Các phân loại này không tính tới các tổn thương ở cơ quan
đích: tim, thận, não, mắt và không tính tới các yếu tố nguy cơ: xơ vữa động
mạch, đái tháo đường,... Nhưng, ưu điểm của phân loại này là quy định mức độ
nặng nhẹ của tăng huyết áp, và nói tới tăng huyết áp tâm thu đơn độc, một loại
tăng huyết áp cần phải điều trị. Tuy nhiên, số huyết áp thay đổi nhiều trong
ngày, cho nên trong thực tế lâm sàng, không thể chỉ dựa vào số huyết áp đo một
lần trong ngày được.
3. Phân
loại tăng huyết áp ở người từ 18 tuổi trở lên
Giai đoạn
|
Huyết áp tâm thu
(mmHg)
|
Huyết áp tâm trương
(mmHg)
|
Bình thường
|
130
|
< 85
|
Bình thường cao
|
130-139
|
85-89
|
Tăng huyết áp:
Giai đoạn 1 (Nhẹ)
Giai đoạn2 (Trung bình)
Giai đoạn 3 (Nặng)
Giai đoạn 4 (Rất nặng)
|
140-159
160-179
180-209
>= 201
|
90-99
100-109
110-119
>= 120
|
(Theo JNC V.1993)
(Chú thích: JNC VI: Giai
đoạn 3: bao gồm giai đoạn 3 và 4 của JNC V)
Giai đoạn tăng huyết áp: Lấy số huyết áp tâm thu hoặc tâm
trương ở giai đoạn nặng nhất và giai đoạn tăng huyết áp được quy định theo số
huyết áp đó. Thí dụ: 160-90 mmHg thuộc giai đoạn 2; 180/120 mmHg thuộc giai
đoạn 4.
Tăng huyết áp tâm thu đơn độc: Khi huyết áp tâm thu (160mmHg
và huyết áp tâm trương 90mmHg).
- Thí dụ: HA: 170/85mmHg: thuộc giai
đoạn 2.
Tính tới các tổn thương ở "cơ quan đích" và các yếu
tố nguy cơ.
- Thí dụ: HA: 142/94 + dày thất trái
(điện tim/siêu âm) + tiểu đường týp 2
Tăng huyết áp giai đoạn 1 + Dày thất trái + Tiểu đường týp 2.
Cách phân giai đoạn tăng huyết áp của JNC V vừa tính tới tổn
thương ở các cơ quan đích, vừa tính tới các yếu tố nguy cơ (tiểu đường, tăng
acid uric máu,...) và chú ý trước tiên tới số huyết áp. Cách chia giai đoạn có
ưu điểm là tính tới mức huyết áp để điều chỉnh thuốc giảm áp đồng thời lưu ý
thầy thuốc tới tổn thương cơ quan đích, tới các yếu tố nguy cơ. Thí dụ: Tăng
huyết áp giai đoạn 3, có suy tim, xơ vữa động mạch; Trong điều trị, không nên
dùng chẹn beta giao cảm mà nên cho ức chế men chuyển, lợi tiểu, thuốc hạ
cholesterol nhóm fibrat hoặc statin.
Năm 1997, JNC VI trình bày bảng phân giai đoạn tăng huyết áp
có sửa so với JNC V, và được ủy ban điều phối của "Chương trình giáo dục
Quốc gia về tăng huyết áp" (National High blood Pressure Education
Program) (NHBPEP) chuẩn y.
JNC VI chỉ khác JNC V là không có giai đoạn 4 vì huyết áp tâm
thu (180mmHg hoặc huyết áp tâm trương 110 mmHg trở lên đều được coi là giai
đoạn 3).
Ðối với các yếu tố nguy cơ và tổn thương cơ quan đích không có
sự khác biệt giữa JNC VI và ủy ban chuyên viên của Tổ chức Y tế thế giới năm
1996 (WHO Expert Committee on Hypertension Control - Hypertension Control:
Report of a WHO Expert Committee - WHO Technical Report Series No. 802. Geneva. Switzerland:
World Health Organization: 1996).
v Các yếu tố nguy cơ chính:
·
Hút
thuốc lá
·
Rối loạn
chuyển hóa mỡ
·
Tiểu
đường
·
> 60
tuổi
·
Giới: Nam giới và phụ
nữ mãn kinh
·
Tiền sử
gia đình có bệnh tim mạch: Phụ nữ ở lứa tuổi dưới 65 hoặc nam giới trong gia
đình dưới tuổi 55.
v Tổn thương ở các cơ quan đích:
·
Bệnh lý
ở tim:
- Phì đại thất trái
- Phì đại thất trái
- Ðau thắt ngực/tiền sử nhồi máu cơ tim
- Tiền sử có điều trị thông tuần hoàn máu
- Suy tim.
·
Ðột quỵ
hoặc cơn đột quỵ thoáng qua
·
Bệnh
thận
·
Bệnh
động mạch ngoại vi
·
Tổn
thương võng mạc
Theo JNC VI, các giai đoạn tăng huyết áp được đánh giá cùng
với tổn thương cơ quan đích và các yếu tố nguy cơ được chia thành 3 nhóm A, B,
C về mặt chiến thuật điều trị.
Huyết áp
|
Nhóm A
(Không có tổn thương cơ quan đích/bệnh tim trên lâm sàng).
|
Nhóm B
(Có ít nhất một yếu tố nguy cơ nhưng không có tiểu đường;
không có tổn thương cơ quan đích/bệnh tim trên lâm sàng).
|
Nhóm C
(Có tổn thương cơ quan đích/bệnh tim trên lâm sàng và/hoặc
tiểu đường, có hoặc không có các yếu tố nguy cơ khác).
|
Bình
thường cao
(130-139/85-89)
|
Thay đổi cách sống
|
Thay đổi lối sống
|
Ðiều trị thuốc
|
Tăng
HA giai đoạn I
(140-159/90-99)
|
Thay đổi lối sống
(theo dõi tới 12 tháng)
|
Thay đổi lối sống
(theo dõi tới 6 tháng)
|
Ðiều trị thuốc
|
Tăng
HA giai đoạn II-III
(>= 160/>= 100)
|
Ðiều trị thuốc
|
Ðiều trị thuốc
|
Ðiều trị thuốc
|
ÐIỀU TRỊ (15/07/2009)
A. Oxy liệu pháp
1. Rất quan trọng, có thể cho thở oxy bằng ống thông qua mũi,
bóng oxy, thở oxy trong phòng kín. Oxy nên dẫn qua bình nước để làm ẩm, không
cho thở oxy 100% trong trường hợp suy hô hấp toàn bộ có tăng CO2 vì
như vậy dễ ức chế trung tâm hô hấp. Sự tăng áp lực oxy trong máu cải thiện tình
trạng thiếu oxy tổ chức sẽ làm giảm áp lực động mạch phổi.
2. Các nghiên cứu lớn tại Anh và Hoa Kỳ đều cho thấy dùng oxy
liệu pháp liều thấp (1-2 lít/phút), kéo dài (12-24 giờ/ngày), trong vài tháng
đến nhiều năm) làm cải thiện rõ tỷ lệ sống của bệnh nhân tâm phế mạn. Ðặc biệt
dùng oxy liệu pháp liên tục có thể làm giảm tỷ lệ tử vong rõ hơn dùng oxy liệu
pháp ngắt quãng vào ban đêm.
3. Oxy liệu pháp cũng làm cải thiện chức năng tâm thần kinh
của bệnh nhân TPM và sự cải thiện này thường có được sau một tháng dùng oxy.
4. Vì sao Oxy liệu pháp làm cải thiện tình trạng sống còn của
bệnh nhân TPM đến nay vẫn chưa rõ. Có hai giả thiết chính: (1) Oxy làm giảm
tình trạng co mạch phổi, giảm sức cản mạch máu phổi vì vậy chức năng thất phải
được cải thiện và thể tích tống máu thất phải tăng; (2) Oxy liệu pháp làm cải
thiện nồng độ oxy máu động mạch nên cung cấp tốt oxy cho các cơ quan sống còn
như não, tim, gan, thận.
5. Liệu pháp Oxy kéo dài được khuyến cáo ở các bệnh nhân TPM
có PaO2 lúc nghỉ dưới 55mmHg và đã được điều trị ổn định trong 3
tuần với các thuốc như giãn phế quản, kháng sinh, lợi tiểu. Bệnh nhân có PaO2
lúc nghỉ lớn hơn 55mmHg thì cần phải xem xét cân nhắc khi dùng oxy liệu pháp
kéo dài và chỉ dùng khi bệnh nhân có đa hồng cầu hoặc có các dấu hiệu tăng áp
động mạch phổi rõ. Cần phải theo dõi trong 2 hoặc 3 tháng sau khi bắt đầu liệu
pháp oxy, khi PaO2 ổn định và tăng lên, có thể chấp nhận điều trị thuốc
cho bệnh nhân mà không dùng oxy nữa.
6. Oxy liệu pháp kéo dài ban đêm có vai trò quan trọng ở các
bệnh nhân có rối loạn bão hòa oxy máu khi ngủ. Bệnh nhân giảm độ bão hòa oxy
khi gắng sức chỉ cần cung cấp bổ sung oxy khi gắng sức và hiệu quả của liệu pháp
oxy kéo dài chưa được chứng minh trong trường hợp này.
B. Thuốc lợi tiểu và trợ
tim
1. Thuốc lợi tiểu: loại ức chế men anhydrase carbonic
như Diamox, hoặc lợi tiểu như Aldacton tỏ ra có ích ở bệnh nhân TPM, liều
10mg/kg cân nặng cho từng đợt 3-4 ngày. Không nên dùng thuốc lợi tiểu khi pH
máu <7,30.
2. Thuốc trợ tim nhóm Digitalis: tác dụng của các thuốc này lên chức
năng thất phải rất phức tạp. Các thuốc Digitalis làm tăng khả năng co bóp của
cơ tim phải nhưng đồng thời cũng làm tăng co thắt mạch máu phổi, làm giảm sự
trở về của máu tĩnh mạch ngoại biên do làm tăng thể tích dự trữ của tĩnh mạch
và vì vậy có thể ảnh hưởng đến cung lượng tim.
a. Chỉ nên dùng trợ tim nhóm Digitalis ở bệnh nhân TPM khi có
suy tim trái kèm theo. Mathur và cộng sự theo dõi tác dụng của Digoxin liều
0,25mg/ngày ở các bệnh nhân TPM trong 8 tuần thì nhận thấy Digoxin không làm
cải thiện phân số tống máu thất phải khi phân số tống máu thất trái bình
thường; chỉ các bệnh nhân có phân số tống máu thất trái giảm từ đầu thì Digoxin
có làm cải thiện phân số tống máu thất phải. Sử dụng thuốc trợ tim phải rất
thận trọng, Digitalis có thể gây rối loạn nhịp tim, chỉ nên sử dụng khi suy tim
còn bù và liều nhẹ.
b. Không dùng khi suy tim mất bù. Thuốc lợi tiểu và Digitalis
trong trường hợp này không quan trọng bằng các biện pháp cải thiện thông khí
phế nang như oxy liệu pháp. Mặc dù các thuốc trợ tim nhóm Digitalis không phải
là thuốc điều trị thông thường của bệnh tâm phế mạn, nhưng một nghiên cứu đã
cho thấy dùng Digoxin đường tĩnh mạch trong những đợt suy hô hấp cấp ở bệnh
nhân TPM có thể làm tăng sức căng của cơ hoành và tăng cung lượng tim.
3. Các thuốc giãn phế quản
a. Theophyllin: đây là thuốc có tác dụng làm giãn phế quản
được sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, Theophyllin có tác dụng làm giảm khó thở
chủ yếu ở những bệnh nhân bị bệnh đường thở tắc nghẽn. Aminophyllin dùng đường
tĩnh mạch có thể làm giảm nhanh áp lực động mạch phổi và làm tăng phân số tống
máu của cả thất phải và thất trái. Uống Theophyllin kéo dài ở bệnh nhân TPM cũng
có tác dụng tốt lên chức năng thất phải. Có nghiên cứu cho thấy bệnh nhân dùng
Theophyllin trong 4 tháng đã làm cải thiện rõ phân số tống máu thất phải. Phân
số tống máu thất trái cũng tăng lên rõ. Các nghiên cứu invivo cho thấy
Theophyllin và Aminophyllin đều làm giảm hậu gánh (do làm giảm sức cản mạch máu
phổi và mạch máu hệ thống) và làm tăng
sức co cơ tim, vì vậy một trị liệu Theophyllin kéo dài có thể làm tăng rõ chức
năng bơm máu của hai thất. Tuy nhiên, Theophyllin không làm giảm hiện tượng co
mạch máu phổi do thiếu oxy tổ chức.
b. Các thuốc kích thích thụ thể (-adrenergic như Salbutamol,
Terbutalin, Pirbuterol được sử dụng như thuốc làm giãn phế quản và có tác dụng
tốt ở bệnh nhân TPM do làm giãn mạch máu phổi (tuần hoàn phổi của người có các
thụ thể (-adrenergic) hoặc trực tiếp làm tăng sự co bóp của cơ tim. Trong một
số nghiên cứu ngắn hạn cho thấy terbutalin và pirbuterol đều làm giảm trở kháng
mạch máu phổi, làm tăng cung lượng tim và tăng phân số tống máu thất phải và
thất trái ở phần lớn bệnh nhân TPM. Tuy nhiên, các tác dụng này không tồn tại
kéo dài khi điều trị các thuốc này lâu dài (> 6 tháng), nhất là ở các bệnh
nhân có dùng oxy liệu pháp.
4. Các thuốc giãn mạch
a. Rất khó khăn khi đánh giá tác dụng của các thuốc giãn mạch
trong điều trị TPM vì những thay đổi huyết động trong điều trị rất phức tạp.
Mục đích của việc dùng các thuốc giãn mạch là làm giảm áp lực động mạch phổi
đang tăng cao ở bệnh nhân TPM. Giãm mạch làm giảm sức cản của mạch máu nhưng bù
lại là cung lượng tim tăng và cuối cùng là áp lực động mạch phổi không thay
đổi. Có thể giãn mạch là tác dụng có lợi (vì làm tăng sự vận chuyển oxy) mặc dù
tăng áp động mạch phổi không giảm bớt. Các thuốc làm giảm sự trở về của máu
tĩnh mạch (nhóm Nitrat) hoặc các thuốc làm giảm chức năng thất phải (nifedipin)
có thể làm giảm bớt tăng áp động mạch phổi do làm giảm cung lượng tim. Các
nghiên cứu theo dõi kéo dài cho thấy cần thiết phải đánh giá các đáp ứng về mặt
huyết động khi dùng các thuốc giãn mạch và cần đánh giá tác dụng lên tỷ lệ sống
còn của từng loại thuốc khác nhau.
b. Dùng các thuốc giãn mạch có thể có tác dụng phụ như hạ
huyết áp và giảm độ bão hòa oxy máu động mạch. Phần lớn các thuốc giãn mạch có
tác dụng mạnh lên mạch máu hệ thống hơn là mạch máu phổi. Ở các bệnh nhân có
tăng áp động mạch phổi nhiều và cung lượng tim bên phải giảm thì co mạch hệ
thống như là một cơ chế bảo vệ chính để duy trì huyết áp động mạch hệ thống. Ở
các bệnh nhân này, giãn mạch máu hệ thống chọn lọc có thể làm giảm huyết áp và
khởi đầu cho vòng xoắn bệnh lý của suy thất phải (do giảm lưu lượng mạch vành
phải) và trụy mạch. Các thuốc giãn mạch cũng có thể làm giảm oxy máu động mạch
do trương lực mạch máu phổi bị phá vỡ làm mất cân bằng thông khí- tưới máu của
phổi.
c. Kết quả nghiên cứu điều trị TPM với các thuốc giãn mạch này
đều không có kết luận rõ ràng và không có một thuốc nào trong các thuốc trên
được khuyến cáo sử dụng thường quy trong thực hành lâm sàng. Các nitrat có vẻ
có tác dụng tốt nhưng thực chất đều không có vai trò rõ ràng vì làm giảm nồng độ
oxy máu động mạch và làm giảm cả chỉ số tim.
d. Ðiều trị TPM với các thuốc giãn mạch cần phải xem xét và
cân nhắc kỹ và chỉ dùng khi các điều trị thường quy và oxy liệu pháp không làm
cải thiện tình trạng suy tim phải và tăng áp động mạch phổi. Vì các thuốc này có nhiều tác dụng phụ nên hiệu
quả của chúng về mặt huyết động và vận chuyển oxy cần được đánh giá cẩn thận,
thường sau 4-5 tháng điều trị và tốt nhất là đánh giá qua thông tim phải.
5. Kháng sinh
Vai trò kháng sinh trong điều trị đợt bội nhiễm rất quan
trọng. Thuốc kháng sinh nên dùng loại có phổ kháng khuẩn rộng, dùng kéo dài và
liều lượng cao trong 2-3 tuần (tiêm, uống, khí dung). Nhiều tác giả chủ trương
dùng kháng sinh ngoài đợt bội nhiễm để đề phòng nhất là cho uống kháng sinh vào
những tháng mùa lạnh (mỗi đợt uống 10 ngày trong 3 tháng).
6. Corticoid: có hiệu quả trong điều trị đợt cấp:
dùng Prednisolon uống, Hydrocortison khí dung, Depersolon hay Solu-Medron tiêm
tĩnh mạch. Corticoid vừa có tác dụng chống viêm, chống dị ứng và làm giảm tiết
dịch.
7. Chích máu: ít dùng, chỉ định khi hematocrit lớn hơn 65%. Lấy khoảng
300ml máu mỗi lần. Sau chích máu, áp lực động mạch phổi trung bình và sức cản
mạch máu phổi thường giảm, cung lượng tim thay đổi không đáng kể, sự vận chuyển
oxy giảm nhiều và sự tiêu thụ oxy lúc nghỉ có thể tăng nhẹ hoặc không thay đổi.
Chích máu có tác dụng rõ rệt đối với khả năng gắng sức của bệnh nhân TPM. Nhiều
nghiên cứu cho thấy khả năng gắng sức, thời gian gắng sức và mức độ tiêu thụ
oxy tối đa đều tăng lên đáng kể sau khi chích máu ở các bệnh nhân TPM có đa
huyết cầu. Chích máu để làm giảm hematocrit còn khoảng 50% có tác dụng tốt về
mặt huyết động trong thời gian ngắn, nhất là khi có gắng sức. Tuy nhiên, tác
dụng lâu dài của việc chích máu lặp lại nhiều lần vẫn chưa được xác định
8. Chế độ ăn uống và nghỉ ngơi: những người bị bệnh phổi mạn tính khi
đã xuất hiện khó thở thì nên làm việc nhẹ, không phải gắng sức. Khi đã có dấu
hiệu suy tim phải thì phải nghỉ việc hoàn toàn, ăn ít muối.
9. Không dùng các thuốc sau: Morphin, gardenal và các thuốc an
thần khác không được dùng cho các bệnh nhân TPM vì sẽ gây suy trung tâm hô hấp.
10. Tập thở: rất quan trọng, làm tăng độ giãn nở
của phổi và lồng ngực, tăng thông khí phế nang, nhất là tập thở bằng cơ hoành.
11. Loại bỏ các yếu tố kích thích: thuốc lào, thuốc lá.
C. Ðiều trị tâm phế mạn
ở một số thể đặc biệt
1. Tâm phế mạn ở bệnh
nhân hen phế quản: cho Hemisucinat Hydrocortison, Depersolon tiêm tĩnh mạch.
2. Bệnh nhân xơ phổi thường không có ứ trệ CO2, chỉ
cần cho thở oxy rộng rãi và cho corticoid.
3. Người béo phì: cho ăn chế độ làm giảm cân.
4. Người gù vẹo cột sống dị dạng lồng ngực: tập thở, chống bội
nhiễm phổi là rất quan trọng, có thể cho điều trị chỉnh hình từ sớm.
5. Do tắc mạch phổi: nghỉ ngơi tuyệt đối, ăn chế độ không
muối, dùng thuốc chống đông, trợ tim digitalis, thở oxy. Phẫu thuật để lấy cục
máu đông tắc ở động mạch phổi lớn.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
CẬN LÂM SÀNG (15/07/2009)
A. Ðiện tâm đồ
1. Ðiện tâm đồ của bệnh nhân tâm phế mạn (TPM) bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố như áp lực động mạch phổi, sự quay và thay đổi vị trí của tim
do hai phổi căng phồng, thay đổi khí máu động mạch, thiếu máu cơ tim và các rối
loạn chuyển hóa. Vì vậy giá trị của điện tâm đồ trong chẩn đoán bệnh tâm phế
mạn còn phụ thuộc vào bệnh phổi nền và các biến chứng của nó.
2. Hình thái phì đại thất phải thường gặp ở những trường hợp
có tắc hẹp hệ mạch máu phổi.. Hai phần ba bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính có phì đại thất phải khi mổ tử thi nhưng trên điện tâm đồ lại không có
hình ảnh của thất phải phì đại. Khi không có hình ảnh phì đại thất phải điền
hình thì việc chẩn đoán phải dựa vào một loạt các dấu hiệu điện tâm đồ như rS ở
V5, V6; qR ở aVR; và P "phế". Sóng P cao nhọn ở DII và aVF chứng tỏ
dày nhĩ phải. Blốc nhánh phải gặp ở 15% bệnh nhân TPM.
3. Rối loạn nhịp không phải luôn có ở bệnh nhân TPM không biến
chứng, nhưng khi có rối loạn nhịp thì hầu như là rối loạn nhịp trên thất và
chứng tỏ có bất thường về khí máu, hạ kali máu hoặc dùng quá liều các thuốc như
Digitalis, Theophyllin và các thuốc kích thích giao cảm. Cơn tim nhanh nhĩ đa ổ
thường gặp ở bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và điều trị tốt nhất là
kiểm soát bệnh phổi hơn là dùng các thuốc chống loạn nhịp. Bệnh nhân TPM khi đã
rối loạn nhịp thất thường có tiên lượng xấu và tỷ lệ tử vong cao.
B. X-quang tim phổi
1. Phần lớn các bệnh gây ra TPM đều có hình ảnh hai trường
phổi sáng hơn bình thường trên phim X-quang lồng ngực và vì vậy việc chẩn đoán
tăng áp lực động mạch phổi trên phim sẽ gặp khó khăn hơn.
2. Thất phải giãn có thể khó xác định được với bóng tim trên
phim thường nằm thẳng đứng do khí phế thũng và so sánh với các phim cũ có thể
giúp ích cho viện chẩn đoán. Hầu hết bệnh nhân TPM đều có thất phải và động
mạch phổi giãn to, nhưng tăng áp động mạch phổi thường có trước giãn thất phải.
3. Một chỉ điểm về tăng áp động mạch phổi là đo đường kính của
động mạch phổi phải và trái. Ðộng mạch phổi phải giãn khi có đường kính ngang
>16mm và đối với động mạch phổi trái là > 18mm. Dấu hiệu này gặp ở 43-46%
bệnh nhân đã biết có tăng áp lực động mạch phổi, nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu
thật sự của phép đo này vẫn chưa được xác định.
C. Siêu âm tim: rất hữu ích ở bệnh nhân bị TPM
1. Siêu âm tim kiểu tĩnh mạch cho phép xác định thất phải giãn
và cũng có thể xác định được tăng áp động mạch phổi hình thái vận động của van
động mạch phổi (mất sóng a).
2. Siêu âm tim 2 bình diện có thể nhìn thấy được toàn bộ buồng
thất phải, đo được độ dày thành thất phải cũng như xác định được những thay đổi
của vách liên thất do phì đại thất phải. Vì thất phải có hình dạng không đối
xứng nên việc đo thể tích thất phải rất khó. Tăng gánh áp lực thất phải thường
được xác định bằng phì đại thành trước thất phải và buồng thất phải giãn.
Trường hợp TPM nặng có thể thấy phì đại vách liên thất và di động nghịch thường
của vách vào thất trái. Tăng gánh thể tích thất phải thường làm giãn buồng thất
và có vách liên thất di động nghịch thường.
3. Siêu âm Doppler tim: là phương pháp thăm dò huyết động
không chảy máu tiện dụng để xác định tăng áp động mạch phổi và cung lượng tim.
Phương pháp này khá chuẩn xác khi áp lực động mạch phổi >30mmHg và kém chuẩn
xác hơn đối với áp lực động mạch phổi thấp hơn mức này. Siêu âm Doppler cũng
hữu ích để theo dõi hiệu quả lâu dài của một trị liệu bằng thuốc.
D. Thông tim phải
1. Thông tim phải chỉ có giá trị để xác định áp lực động mạch
phổi, áp lực động mạch phổi bít và cung lượng tim. Bệnh nhân TPM có áp lực động
mạch phổi trung bình cao hơn nhiều so với áp lực động mạch phổi bít, không
giống với suy tim trái hay hẹp van hai lá chỉ có sự chênh lệch nhỏ giữa áp lực
động mạch phổi trung bình và áp lực phổi bít.
2. Áp lực động mạch phổi trung bình rất cao trong các trường
hợp bệnh mạch máu phổi tắc nghẽn nhưng chỉ tăng nhẹ ở các bệnh mô phổi kẽ.
Trong giai đoạn đầu của bệnh TPM, áp lực động mạch phổi chỉ từ 25-30mmHg và khi
đã có suy tim phải thường tăng trên 40mmHg.
E. Khí máu động mạch
1. Giai đoạn đầu: suy hô hấp từng
phần, áp suất ôxy máu động mạch (PaO2) thường giảm, nhất là khi gắng
sức; áp suất CO2 động mạch (PaO2) không tăng, có khi còn
giảm do tăng thông khí; độ bão hòa ôxy máu động mạch (SaO2) giảm
nhẹ; pH máu còn bình thường.
2. Giai đoạn suy hô hấp toàn bộ: PaO2
giảm nhiều < 70mmHg; PaCO2 tăng cao 50-80mmHg; SaO2
giảm <75%; pH giảm dưới 7,2.
G. Công thức máu
Thường thấy biểu hiện của đa hồng cầu và tăng hematocrit.
TÁM LỜI KHUYÊN VỀ CÁCH SỐNG CỦA NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP (15/07/2009)
Tổ chức y tế
Thế giới năm 1999 đã đưa ra bảy lời khuyên dưới đây để phòng và chống bệnh tăng
huyết áp.
1.
Bỏ thuốc lá
2.
Chống béo phì
3.
Giảm uống rượu
4.
Giảm nửa muối ăn
5.
Cải tiến chế độ ăn
6.
Tăng vận động thể lực
7.
Giữ tinh thần lạc quan
8. Dùng
thuốc đúng lời dặn của bác sĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét