Máu được chia làm 2 phần: Phần hữu hình và vô hình.
Phần hữu hình là 3 loại tế bào nhìn thấy được dưới kính hiển vi. Đó là: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
Phần không nhìn thấy dưới kính
hiển vi là huyết tương, có màu vàng trong chứa các chất vô cơ như các
ion kali, natri, can xi. magnesie, phospho...Các chất hữu cơ như
protein, cacbohydrate, acid béo, fibirinogen...
Bạn để một giọt máu lên lam kính.
Chừng 5-7 phút sau cục máu đông lại. Đó là do các sợi fibrin tạo thành
một lưới giam hãm các huyết cầu tạo thành cục máu đông. Bạn lại nhìn
thấy một chút nước màu vàng nhạt rỉ ra ở cục máu đông. Đó là huyết
thanh.
Những chất có độ pH giống như máu
được gọi là huyết thanh. Ví dụ: huyết thanh ngọt 5% chứa 5g gluco trong
100 ml nước, huyết thanh mặn chứa 0,9% natriclorure dùng để truyền cho
những người bị tiêu chảy, mất nước và mất muối.
Bản thân huyết thanh là từ thông
dụng, nó không bao hàm ý nghĩa bệnh tật. Vì thế bạn hỏi"có nguy hiểm gì
không" tức là bạn chưa hiểu hoặc bác sĩ ghi "huyết thanh đục" muốn chỉ
lượng triglycerid (một loại mỡ trong máu) tăng làm cho huyết thanh không
trong nữa mà bị đục.
TS LÊ THÚY TƯƠI
'''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''^^^^^^^^^^^^^^^^^"""""""""""""""""""""""
Máu của chúng ta có 2 thành phần cơ bản là :huyết cầu bao gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Phần thứ hai là huyết tương. Huyết tương là chất lỏng có màu nhạt, nó chứa 91% nước, 7% protein (albumin, globulin, prothrombin, fibrinogen). Huyết tương chứa một số muối hòa tan(natriclorua, bicacbonate, phosphate...). Huyết tương có độ kiềm nhẹ với độ pH khoảng 7,3. Huyết tương là nơi hoà tan các chất dinh dưỡng, các chất khi để vận chuyển từ nơi này đến nơi kia của cơ thể.
Huyết thanh là huyết tương đã loại chất chống đông. Người ta còn dùng "huyết thanh" để chỉ những dung dịch có thể truyền vào máu nhằm bù một số chất bị thiếu hụt. Thí dụ: huyết thanh ngọt muốn chỉ dung dịch glucose 5% hay 20%, huyết thanh mặn bù muối trong trường hợp tiêu chảy là dung dịch Natriclorua 0,9%, nếu cần bù nhiều nguyên tố vi lượng người ta dùng dung dịch Lactate ringer...
Máu bị nhiễm trùng thì gọi là "nhiễm trùng huyết" vì trong đó bao hàm cả huyết tương, huyết thanh. Còn nhiễm trùng huyết thanh muốn chỉ chai dịch truyền ấy bị nhiễm trùng, không nên truyền. Câu hỏi của bạn không rõ ràng "bạn của cháu bị nhiễm trùng huyết thanh". Nếu đó là nhiễm trùng huyết thì sốt cao, lạnh run và phải cấp cứu, truyền kháng sinh qua đường tĩnh mạch may mới thoát khỏi thần chết. Nếu đi chơi với nhau mà bảo "nhiễm trùng huyết thanh" thì chắc là...nói đùa cho vui thôi.
---------------------------------------------------------------------------------
Sự hiểu biết về kháng nguyên nhóm máu là vô cùng cần thiết cho công tác truyền máu. Truyền máu đã được áp dụng từ lâu trong cấp cứu và điều trị. Khi truyền máu đã gặp nhiều tai biến rất nguy hiểm, mặc dù truyền máu lần đầu.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rằng nguyên nhân tai biến là do sự có mặt cuả kháng thể tự nhiên trong cơ thể. Các kháng thể này chống lại các kháng nguyên với tính miễn dịch cao có trên bề mặt hồng cầu.
Trên bề mặt hồng cầu người có nhiều kháng nguyên khác nhau người ta đã tìm được khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên khác nhưng đều là kháng nguyên có tính miễn dịch yếu, thường chỉ dùng để nghiên cứu gen. Các kháng nguyên xếp thành hệ thống các nhóm máu AB0, Rh, Lewis, MNSs, P, Kell, Lutheran, Duffy, Kidd... Trong số này có hai hệ thống nhóm máu AB0 và Rh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong truyền maú.
1.1. Hệ thống nhóm máu ABO.
Năm 1901, Landsteiner phát hiện ra hiện tượng: huyết thanh của người này làm ngưng kết hồng cầu của người kia và ngược lại. Sau đó nguời ta đã tìm được kháng nguyên A và kháng nguyên B, kháng thể a( chống A) và kháng thể b ( chống B).
Kháng nguyên A và B có mặt trên màng hồng cầu; kháng thể a và b có mặt trong huyết tương. Kháng thể a sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên A, kháng thể b sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên B.
Do cơ thể có trạng thái dung nạp với kháng nguyên bản thân, nên trong huyết tương không bao gời có kháng thể chống lại kháng nguyên có trên bề mặt hồng cầu của chính cơ thể đó. Từ đó hệ thống nhóm máu ABO được chia làm 4 nhóm: nhóm A, nhóm B, nhóm AB và nhóm O. Ký hiệu nhóm máu biểu thị sự có mặt của kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu.
Cơ thể nhóm máu A có kháng nguyên A trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể b (chống B) trong huyết tương .
Cơ thể nhóm máu B có kháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể a (chống A) trong huyết tương
Cơ thể nhóm máu AB có kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu và không có kháng thể a và b trong huyết tương.
Cơ thể nhóm máu 0 không có kháng nguyên Avà B trên bề mặt hồng cầu, trong huyết tương có cả kháng thể a và b.
Người ta cũng biết rằng các kháng thể a và b là những kháng thể xuất hiện tự nhiên trong huyết thanh. Sự phân bố các kháng nguyên, kháng thể thuộc hệ thống nhóm máu AB0 như sau:
Nhóm A được chia thành hai phân nhóm A1 và A2. Vì vậy số lượng nhóm máu đã trở thành 6 nhóm: A1, A2, B, A1B, A2B và 0. Một số người có kháng nguyên A1, có kháng thể chống A2. Một số người có kháng nguyên A2, có kháng thể chống A1. Các kháng thể này yếu nên ít gây nguy hiểm, nhưng trong thực tế có thể gây tai biến nghiêm trọng khi truyền nhóm máu A2 nhầm tưởng là nhóm máu 0 và nhóm máu A2B nhầm tưởng là nhóm B cho bệnh nhân nhóm máu B.
Các kháng nguyên thuộc hệ ABO do một locus kiểm soát với 3 alen AB0 trong đó A và B là trội. Việc phát hiện ra cấu trúc kháng nguyên nhóm máu thuộc hệ AB0 đã làm thay đổi quan niệm trước đây cho rằng: kháng nguyên A là sản phẩm trực tiếp của gen A, kháng nguyên B là sản phẩm trực tiếp của gen B. Người ta cho rằng tham gia hình thành kháng nguyên nhóm máu trong hệ AB0 có các hệ gen Hh và hệ thống gen AB0. Các hệ thống gen này di truyền độc lập. Người có nhóm máu 0 chỉ có gen H mà không có gen A và B nên không có enzym biến chất H thành kháng nguyên A hoặc B, do đó chỉ có chất H chiếm toàn bộ bề mặt hồng cầu. Người có nhóm máu A có cả gen H và gen A nên có enzym biến chất H thành kháng nguyên A do đó trên bề mặt hồng cầu có cả chất H và cả kháng nguyên A. Với sự giải thích tương tự, người có nhóm máu B, trên bề mặt hồng cầu có cả chất H và kháng nguyên B. Người có nhóm máu AB, trên bề mặt hồng cầu có cả chất H, kháng nguyên A và kháng nguyên B.
Đại bộ phận người là có gen H. Một số ít người không có gen H (cơ thể đồng hợp tử hh), không có chất H trên bề mặt hồng cầu. Người không có gen H, dù có gen A hoặc gen B thì cũng không có kháng nguyên A hoặc kháng nguyên B, vì các kháng nguyên này chỉ xuất hiện từ chất H. Khi thử máu bằng kỹ thuật ngưng kết, người không có gen H đều được ghi nhận là nhóm máu O, nhưng họ (cơ thể đồng hợp tử hh) có thể tạo ra kháng thể chống H khi truyền máu của người nhóm máu O thật sự (có chất H) vì thế có thể gây tai biến. Người có nhóm máu này được gọi là nhóm máu O Bombay.
Đa số người (80%), kháng nguyên nhóm máu còn có mặt trong các dịch tiết: nước bọt, dịch vị...
Ngay sau khi ra đời, kháng thể có nồng độ rất thấp. Từ tháng thứ 2 trở đi, kháng thể tăng dần lên và cao nhất từ 8 -10 tuổi, sau đó giảm dần trở về bình thường ở tuổi trưởng thành rồi giảm dần theo tuổi tác. Kháng thể là g globulin, hầu hết là IgM, sau đó là IgG. Giống các kháng thể miễn dịch khác IgM và IgG cũng do các lympho bào sản xuất.
1.2. Hệ thống nhóm máu Rh.
Năm 1940 Landsteiner và Wiener nhận thấy: nếu lấy hồng cầu khỉ Macacus Rhesus gây miễn dịch cho thỏ thì huyết thanh miễn dịch thỏ ngoài việc gây ngưng kết hồng cầu khỉ còn gây ngưng kết hồng cầu người. Lúc đầu xếp những người có hồng cầu bị ngưng kết bởi huyết thanh này vào nhóm Rh+ những người có hồng cầu không bị ngưng kết vào nhóm Rh-. Nhưng sau này thấy hệ thống kháng nguyên Rh không đơn giản như vậy. Trong hệ thống Rh có nhiều kháng nguyên, phần lớn chúng có tính phản ứng chéo và sinh miễn dịch yếu. Do đó kháng thể không gây ngưng kết mạnh như hệ thống AB0.
Kháng nguyên hệ Rh phân bố thưa thớt trên bề mặt hồng cầu. Có 3 loại kháng nguyên chính: kháng nguyên D (Rh0), kháng nguyên C (Rh'), kháng nguyên E (Rh''). Chỉ có kháng nguyên D có tính kháng nguyên mạnh và có tính sinh miễn dịch cao. Vì vậy khi có kháng nguyên D thì được gọi là Rh+. Những nhóm máu khác thuộc hệ Rh đều có tính kháng nguyên rất yếu, ít được chú ý như Rh1, Rh2, Rhz, Rhy, rh. Tỷ lệ Rh+ của người da trắng là 85%, người Mỹ da đen là 95%, người Phi da đen là 100%, người Việt là 99,92%. Nói một cách khác là tỷ lệ Rh- của người Việt là 0,08% gần như không đáng kể.
Kháng nguyên hệ thống nhóm máu Rh là di truyền, còn kháng thể chống Rh chỉ xuất hiện ở cơ thể Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầu có kháng nguyên D (Rh+ ). Kháng thể này thường là IgG. Nếu một người Rh- , chưa hề được truyền máu Rh+ bao giờ thì việc truyền máu Rh+ cho họ sẽ không bao giờ xảy ra phản ứng tức thì nào. Tuy nhiên sau khi truyền máu Rh+ từ 2-4 tuần sau, lượng kháng thể chống Rh đã tương đối cao đủ để gây ngưng kết hồng cầu Rh+ của người cho vẫn tồn tại trong máu người nhận. Phản ứng này chậm và rất nhẹ. Sau 2-4 tháng truyền máu Rh+, nồng độ kháng thể chống Rh trong máu người Rh- mới đạt tối đa. Nếu truyền máu Rh+ cho những người này ở lần thứ 2, có thể gây ra tai biến truyền máu nặng, chẳng kém gì tai biến như hệ AB0. Sau vài lần truyền máu Rh+ cho người Rh-, người Rh- trở nên rất mẫn cảm với kháng nguyên Rh, tai biến khi truyền máu là cực kỳ nguy hiểm. Đó là lý do tại sao ta phải cần lưu ý tới người đã được truyền máu nhiều lần. Cần phải xác định nhóm máu hệ Rh cho họ, sợ rằng họ là người Rh-.
Trường hợp thứ hai là người mẹ Rh-, bố Rh+. Đứa trẻ được di truyền Rh+ từ bố. Hồng cầu Rh+ của thai và sản phẩm phân huỷ hồng cầu Rh+ của thai sang máu mẹ. Người mẹ sẽ có quá trình tạo kháng thể chống Rh, các kháng thể này qua nhau thai làm ngưng kết hồng cầu thai. Nếu người mẹ có thai lần đầu thì cơ thể người mẹ chưa sản xuất đủ kháng thể để gây nguy hiểm cho thai nhi. Khoảng 30% số thai thứ hai Rh+ có triệu chứng tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết và tỷ lệ mắc bệnh tăng dần lên và triệu chứng bệnh cũng nặng hơn cho những thai sau.
Nhiều người bố Rh+ dị hợp tử, do đó có khoảng 25% số con cái là Rh-. Vì vậy sau khi đẻ đứa con trước bị vàng da huỷ huyết, tăng nguyên hồng cầu, không nhất thiết đứa trẻ sau cũng bị bệnh này. Những đứa trẻ mắc bệnh tăng nguyên hồng cầu bào thai thấy các mô sinh máu đều tăng sinh hồng cầu; gan, lách to ra và sản xuất hồng cầu kỳ bào thai. Hồng cầu này xuất hiện nhiều trong máu. Trẻ thường chết do thiếu máu nặng. Nếu sống sót trẻ thường thiếu trí tuệ, tổn thương vỏ não vận động do lắng đọng bilirubin trong các neuron. Cũng có thể kháng thể chống Rh còn tấn công một số tế bào khác của cơ thể.
Trường hợp thứ hai mà ta cần lưu ý trên đây chính là người phụ nữ có tiền sử sảy thai, đẻ non, đẻ con có tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết. Những người này nếu cần truyền máu, phải xét nghiệm nhóm máu Rh. Người ta sợ rằng người mẹ này máu Rh- và trong máu đã có kháng thể chống Rh. Nếu truyền máu Rh+ cho họ thì sẽ có tai biến rất nguy hiểm xảy ra.
1.3. Các hệ thống nhóm máu khác.
Trong các hệ thống nhóm máu còn lại thì hệ Kell chiếm vị trí hàng đầu. Kháng nguyên Kell rất nguy hiểm. Năm 1947 người ta đã phát hiện tai nạn do kháng nguyên này gây ra, từ đó về sau tai nạn do kháng nguyên này vẫn được theo dõi.
Kháng nguyên Fya thuộc hệ Duffy cũng được quan tâm. 1950 lần đầu tiên Mollison phát hiện kháng thể chống Fya trong huyết tương bệnh nhân bị tan máu được truyền máu nhiều lần. Trong vòng 20 năm đó người ta đã miêu tả nhiều trường hợp tương tự. Năm 1951 có một tai biến chết người do Fya.
Kháng nguyên S thuộc hệ MNSs có thể gây ra miễn dịch sau truyền máu và xuất hiện tai nạn tan máu.
Những kháng thể lạnh đặc hiệu tự nhiên như kháng thể chống Lea , Leb (thuộc hệ Lewis), M, N, P chỉ gây ra phản ứng ở một nhiệt độ nhất định và không nguy hiểm.
2. TRUYỀN MÁU.
Trong thực hành truyền máu, ngoài những qui định về những xét nghiệm phát hiện các virut lây theo đường máu, về kỹ thuật bảo quản... chúng ta cần phải thực hiện đúng qui tắc về nhóm máu, qui tắc cơ bản là: không để kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau trong máu người nhận. Đối với hệ thống nhóm máu ABO, thoả mãn qui tắc trên là phải truyền cùng nhóm.
Dựa vào kháng thể đã biết của huyết thanh mẫu (antiA, antiB, antiAB) người ta xác định chính xác kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu. Đồng thời với việc xác định nhóm máu thuộc hệ ABO, cần phải làm các phản ứng chéo: trộn hồng cầu người cho với huyết thanh máu người nhận và ngược lại trộn hồng cầu người nhận với huyết thanh máu người cho. Các phản ứng trên không có hiện tượng ngưng kết hồng cầu thì máu đó mới được truyền.
Có một số tác giả đề nghị rằng, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, tốt nhất là truyền máu tự thân. Đối tượng được lấy máu lúc khoẻ mạnh và được bảo quản trong ngân hàng, khi cần thì lấy chính máu của họ truyền cho họ. Hiện nay chưa có điều kiện ký thuật để bảo quản máu được lâu (đặc biệt là các nước đang phát triển) cho nên điều này chưa thực hiện được. Để khắc phục tai biến truyền máu và tình trạng lây nhiễm bệnh qua truyền máu, các nhà khoa học đã nghiên cứu sản xuất ra máu nhân tạo để làm dịch truyền thay thế máu. Song phạm vi ứng dụng máu nhân tạo chưa được rộng rãi vì giá thành còn quá đắt.
Trong trường hợp cần truyền máu mà lại không có máu cùng nhóm, người ta có thể truyền theo một qui tắc tối thiểu: không để xảy ra ngưng kết hồng cầu của người cho trong máu của người nhận. Nếu để xảy ra tai biến này thì chỉ cần truyền nhầm 2ml máu đã có thể gây chết người do tắc mạch, rối loạn trao đổi khí của máu, tan máu, suy thận cấp... Như vậy có thể truyền máu khác nhóm, nhưng bắt buộc phải theo sơ đồ sau:
http://www.benhhoc.com/images.php?do=view&id=94
Nhóm O truyền được cho nhóm A,B và AB. Nhóm A và B truyền được cho nhóm AB. Nhóm AB không truyền được cho nhóm O, A và B. Trong trường hợp truyền máu khác nhóm như vậy, chỉ được truyền khoảng 250ml máu (một đơn vị máu), với tốc độ rất chậm. Tai biến do truyền máu rất khó xảy ra vì kháng thể trong máu người cho ngay lập tức bị pha loãng trong máu của người nhận do đó nồng độ kháng thể rất thấp. Các kháng thể này sau đó sẽ bị các enzym phân giải. Tuy vậy, ngày nay nhờ sự hiến máu nhân đạo được phổ cập nên sự truyền máu theo qui tắc tối thiểu ít được ứng dụng.
Đối với hệ thống Rh, kháng thể chống Rh chỉ hình thành ở người Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầu Rh+. Tỷ lệ Rh- của người Việt lại rất thấp, cho nên thực tế người ta chú ý hai trường hợp cần xét nghiệm nhóm máu hệ Rh đó là người đã được truyền máu nhiều lần và người phụ nữ có tiền sử xảy thai, đẻ non, đẻ con có hội chứng vàng da huỷ huyết. Việc xét nghiệm nóm máu hệ Rh cũng dựa trên kháng thể của huyết thanh mẫu để tìm kháng nguyên. Nếu người cần được truyền máu là Rh+ thì truyền máu Rh+ hoặc Rh- đều được. Nếu người cần được truyền máu là máu Rh- thì nhất thiết phải được truyền máu là Rh-.
^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
4.5. NHÓM MÁU VÀ SỰ TRUYỀN MÁU
'''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''^^^^^^^^^^^^^^^^^"""""""""""""""""""""""
Máu của chúng ta có 2 thành phần cơ bản là :huyết cầu bao gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Phần thứ hai là huyết tương. Huyết tương là chất lỏng có màu nhạt, nó chứa 91% nước, 7% protein (albumin, globulin, prothrombin, fibrinogen). Huyết tương chứa một số muối hòa tan(natriclorua, bicacbonate, phosphate...). Huyết tương có độ kiềm nhẹ với độ pH khoảng 7,3. Huyết tương là nơi hoà tan các chất dinh dưỡng, các chất khi để vận chuyển từ nơi này đến nơi kia của cơ thể.
Huyết thanh là huyết tương đã loại chất chống đông. Người ta còn dùng "huyết thanh" để chỉ những dung dịch có thể truyền vào máu nhằm bù một số chất bị thiếu hụt. Thí dụ: huyết thanh ngọt muốn chỉ dung dịch glucose 5% hay 20%, huyết thanh mặn bù muối trong trường hợp tiêu chảy là dung dịch Natriclorua 0,9%, nếu cần bù nhiều nguyên tố vi lượng người ta dùng dung dịch Lactate ringer...
Máu bị nhiễm trùng thì gọi là "nhiễm trùng huyết" vì trong đó bao hàm cả huyết tương, huyết thanh. Còn nhiễm trùng huyết thanh muốn chỉ chai dịch truyền ấy bị nhiễm trùng, không nên truyền. Câu hỏi của bạn không rõ ràng "bạn của cháu bị nhiễm trùng huyết thanh". Nếu đó là nhiễm trùng huyết thì sốt cao, lạnh run và phải cấp cứu, truyền kháng sinh qua đường tĩnh mạch may mới thoát khỏi thần chết. Nếu đi chơi với nhau mà bảo "nhiễm trùng huyết thanh" thì chắc là...nói đùa cho vui thôi.
---------------------------------------------------------------------------------
NHÓM MÁU VÀ TRUYỀN MÁU
1. NHÓM MÁU.Sự hiểu biết về kháng nguyên nhóm máu là vô cùng cần thiết cho công tác truyền máu. Truyền máu đã được áp dụng từ lâu trong cấp cứu và điều trị. Khi truyền máu đã gặp nhiều tai biến rất nguy hiểm, mặc dù truyền máu lần đầu.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rằng nguyên nhân tai biến là do sự có mặt cuả kháng thể tự nhiên trong cơ thể. Các kháng thể này chống lại các kháng nguyên với tính miễn dịch cao có trên bề mặt hồng cầu.
Trên bề mặt hồng cầu người có nhiều kháng nguyên khác nhau người ta đã tìm được khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên khác nhưng đều là kháng nguyên có tính miễn dịch yếu, thường chỉ dùng để nghiên cứu gen. Các kháng nguyên xếp thành hệ thống các nhóm máu AB0, Rh, Lewis, MNSs, P, Kell, Lutheran, Duffy, Kidd... Trong số này có hai hệ thống nhóm máu AB0 và Rh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong truyền maú.
1.1. Hệ thống nhóm máu ABO.
Năm 1901, Landsteiner phát hiện ra hiện tượng: huyết thanh của người này làm ngưng kết hồng cầu của người kia và ngược lại. Sau đó nguời ta đã tìm được kháng nguyên A và kháng nguyên B, kháng thể a( chống A) và kháng thể b ( chống B).
Kháng nguyên A và B có mặt trên màng hồng cầu; kháng thể a và b có mặt trong huyết tương. Kháng thể a sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên A, kháng thể b sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên B.
Do cơ thể có trạng thái dung nạp với kháng nguyên bản thân, nên trong huyết tương không bao gời có kháng thể chống lại kháng nguyên có trên bề mặt hồng cầu của chính cơ thể đó. Từ đó hệ thống nhóm máu ABO được chia làm 4 nhóm: nhóm A, nhóm B, nhóm AB và nhóm O. Ký hiệu nhóm máu biểu thị sự có mặt của kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu.
Cơ thể nhóm máu A có kháng nguyên A trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể b (chống B) trong huyết tương .
Cơ thể nhóm máu B có kháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể a (chống A) trong huyết tương
Cơ thể nhóm máu AB có kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu và không có kháng thể a và b trong huyết tương.
Cơ thể nhóm máu 0 không có kháng nguyên Avà B trên bề mặt hồng cầu, trong huyết tương có cả kháng thể a và b.
Người ta cũng biết rằng các kháng thể a và b là những kháng thể xuất hiện tự nhiên trong huyết thanh. Sự phân bố các kháng nguyên, kháng thể thuộc hệ thống nhóm máu AB0 như sau:
Genotypes |
Nhóm máu |
Kháng nguyên |
Kháng thể |
Tỷ Lệ % |
|
Người da trắng |
Người Việt |
||||
00 0A hoặcAA 0B hoặc BB AB |
0 A B AB |
- A B A và B |
a và b b a - |
47 41 9 3 |
43 21,5 29,5 6 |
Các kháng nguyên thuộc hệ ABO do một locus kiểm soát với 3 alen AB0 trong đó A và B là trội. Việc phát hiện ra cấu trúc kháng nguyên nhóm máu thuộc hệ AB0 đã làm thay đổi quan niệm trước đây cho rằng: kháng nguyên A là sản phẩm trực tiếp của gen A, kháng nguyên B là sản phẩm trực tiếp của gen B. Người ta cho rằng tham gia hình thành kháng nguyên nhóm máu trong hệ AB0 có các hệ gen Hh và hệ thống gen AB0. Các hệ thống gen này di truyền độc lập. Người có nhóm máu 0 chỉ có gen H mà không có gen A và B nên không có enzym biến chất H thành kháng nguyên A hoặc B, do đó chỉ có chất H chiếm toàn bộ bề mặt hồng cầu. Người có nhóm máu A có cả gen H và gen A nên có enzym biến chất H thành kháng nguyên A do đó trên bề mặt hồng cầu có cả chất H và cả kháng nguyên A. Với sự giải thích tương tự, người có nhóm máu B, trên bề mặt hồng cầu có cả chất H và kháng nguyên B. Người có nhóm máu AB, trên bề mặt hồng cầu có cả chất H, kháng nguyên A và kháng nguyên B.
Đại bộ phận người là có gen H. Một số ít người không có gen H (cơ thể đồng hợp tử hh), không có chất H trên bề mặt hồng cầu. Người không có gen H, dù có gen A hoặc gen B thì cũng không có kháng nguyên A hoặc kháng nguyên B, vì các kháng nguyên này chỉ xuất hiện từ chất H. Khi thử máu bằng kỹ thuật ngưng kết, người không có gen H đều được ghi nhận là nhóm máu O, nhưng họ (cơ thể đồng hợp tử hh) có thể tạo ra kháng thể chống H khi truyền máu của người nhóm máu O thật sự (có chất H) vì thế có thể gây tai biến. Người có nhóm máu này được gọi là nhóm máu O Bombay.
Đa số người (80%), kháng nguyên nhóm máu còn có mặt trong các dịch tiết: nước bọt, dịch vị...
Ngay sau khi ra đời, kháng thể có nồng độ rất thấp. Từ tháng thứ 2 trở đi, kháng thể tăng dần lên và cao nhất từ 8 -10 tuổi, sau đó giảm dần trở về bình thường ở tuổi trưởng thành rồi giảm dần theo tuổi tác. Kháng thể là g globulin, hầu hết là IgM, sau đó là IgG. Giống các kháng thể miễn dịch khác IgM và IgG cũng do các lympho bào sản xuất.
1.2. Hệ thống nhóm máu Rh.
Năm 1940 Landsteiner và Wiener nhận thấy: nếu lấy hồng cầu khỉ Macacus Rhesus gây miễn dịch cho thỏ thì huyết thanh miễn dịch thỏ ngoài việc gây ngưng kết hồng cầu khỉ còn gây ngưng kết hồng cầu người. Lúc đầu xếp những người có hồng cầu bị ngưng kết bởi huyết thanh này vào nhóm Rh+ những người có hồng cầu không bị ngưng kết vào nhóm Rh-. Nhưng sau này thấy hệ thống kháng nguyên Rh không đơn giản như vậy. Trong hệ thống Rh có nhiều kháng nguyên, phần lớn chúng có tính phản ứng chéo và sinh miễn dịch yếu. Do đó kháng thể không gây ngưng kết mạnh như hệ thống AB0.
Kháng nguyên hệ Rh phân bố thưa thớt trên bề mặt hồng cầu. Có 3 loại kháng nguyên chính: kháng nguyên D (Rh0), kháng nguyên C (Rh'), kháng nguyên E (Rh''). Chỉ có kháng nguyên D có tính kháng nguyên mạnh và có tính sinh miễn dịch cao. Vì vậy khi có kháng nguyên D thì được gọi là Rh+. Những nhóm máu khác thuộc hệ Rh đều có tính kháng nguyên rất yếu, ít được chú ý như Rh1, Rh2, Rhz, Rhy, rh. Tỷ lệ Rh+ của người da trắng là 85%, người Mỹ da đen là 95%, người Phi da đen là 100%, người Việt là 99,92%. Nói một cách khác là tỷ lệ Rh- của người Việt là 0,08% gần như không đáng kể.
Kháng nguyên hệ thống nhóm máu Rh là di truyền, còn kháng thể chống Rh chỉ xuất hiện ở cơ thể Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầu có kháng nguyên D (Rh+ ). Kháng thể này thường là IgG. Nếu một người Rh- , chưa hề được truyền máu Rh+ bao giờ thì việc truyền máu Rh+ cho họ sẽ không bao giờ xảy ra phản ứng tức thì nào. Tuy nhiên sau khi truyền máu Rh+ từ 2-4 tuần sau, lượng kháng thể chống Rh đã tương đối cao đủ để gây ngưng kết hồng cầu Rh+ của người cho vẫn tồn tại trong máu người nhận. Phản ứng này chậm và rất nhẹ. Sau 2-4 tháng truyền máu Rh+, nồng độ kháng thể chống Rh trong máu người Rh- mới đạt tối đa. Nếu truyền máu Rh+ cho những người này ở lần thứ 2, có thể gây ra tai biến truyền máu nặng, chẳng kém gì tai biến như hệ AB0. Sau vài lần truyền máu Rh+ cho người Rh-, người Rh- trở nên rất mẫn cảm với kháng nguyên Rh, tai biến khi truyền máu là cực kỳ nguy hiểm. Đó là lý do tại sao ta phải cần lưu ý tới người đã được truyền máu nhiều lần. Cần phải xác định nhóm máu hệ Rh cho họ, sợ rằng họ là người Rh-.
Trường hợp thứ hai là người mẹ Rh-, bố Rh+. Đứa trẻ được di truyền Rh+ từ bố. Hồng cầu Rh+ của thai và sản phẩm phân huỷ hồng cầu Rh+ của thai sang máu mẹ. Người mẹ sẽ có quá trình tạo kháng thể chống Rh, các kháng thể này qua nhau thai làm ngưng kết hồng cầu thai. Nếu người mẹ có thai lần đầu thì cơ thể người mẹ chưa sản xuất đủ kháng thể để gây nguy hiểm cho thai nhi. Khoảng 30% số thai thứ hai Rh+ có triệu chứng tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết và tỷ lệ mắc bệnh tăng dần lên và triệu chứng bệnh cũng nặng hơn cho những thai sau.
Nhiều người bố Rh+ dị hợp tử, do đó có khoảng 25% số con cái là Rh-. Vì vậy sau khi đẻ đứa con trước bị vàng da huỷ huyết, tăng nguyên hồng cầu, không nhất thiết đứa trẻ sau cũng bị bệnh này. Những đứa trẻ mắc bệnh tăng nguyên hồng cầu bào thai thấy các mô sinh máu đều tăng sinh hồng cầu; gan, lách to ra và sản xuất hồng cầu kỳ bào thai. Hồng cầu này xuất hiện nhiều trong máu. Trẻ thường chết do thiếu máu nặng. Nếu sống sót trẻ thường thiếu trí tuệ, tổn thương vỏ não vận động do lắng đọng bilirubin trong các neuron. Cũng có thể kháng thể chống Rh còn tấn công một số tế bào khác của cơ thể.
Trường hợp thứ hai mà ta cần lưu ý trên đây chính là người phụ nữ có tiền sử sảy thai, đẻ non, đẻ con có tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết. Những người này nếu cần truyền máu, phải xét nghiệm nhóm máu Rh. Người ta sợ rằng người mẹ này máu Rh- và trong máu đã có kháng thể chống Rh. Nếu truyền máu Rh+ cho họ thì sẽ có tai biến rất nguy hiểm xảy ra.
1.3. Các hệ thống nhóm máu khác.
Trong các hệ thống nhóm máu còn lại thì hệ Kell chiếm vị trí hàng đầu. Kháng nguyên Kell rất nguy hiểm. Năm 1947 người ta đã phát hiện tai nạn do kháng nguyên này gây ra, từ đó về sau tai nạn do kháng nguyên này vẫn được theo dõi.
Kháng nguyên Fya thuộc hệ Duffy cũng được quan tâm. 1950 lần đầu tiên Mollison phát hiện kháng thể chống Fya trong huyết tương bệnh nhân bị tan máu được truyền máu nhiều lần. Trong vòng 20 năm đó người ta đã miêu tả nhiều trường hợp tương tự. Năm 1951 có một tai biến chết người do Fya.
Kháng nguyên S thuộc hệ MNSs có thể gây ra miễn dịch sau truyền máu và xuất hiện tai nạn tan máu.
Những kháng thể lạnh đặc hiệu tự nhiên như kháng thể chống Lea , Leb (thuộc hệ Lewis), M, N, P chỉ gây ra phản ứng ở một nhiệt độ nhất định và không nguy hiểm.
2. TRUYỀN MÁU.
Trong thực hành truyền máu, ngoài những qui định về những xét nghiệm phát hiện các virut lây theo đường máu, về kỹ thuật bảo quản... chúng ta cần phải thực hiện đúng qui tắc về nhóm máu, qui tắc cơ bản là: không để kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau trong máu người nhận. Đối với hệ thống nhóm máu ABO, thoả mãn qui tắc trên là phải truyền cùng nhóm.
Dựa vào kháng thể đã biết của huyết thanh mẫu (antiA, antiB, antiAB) người ta xác định chính xác kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu. Đồng thời với việc xác định nhóm máu thuộc hệ ABO, cần phải làm các phản ứng chéo: trộn hồng cầu người cho với huyết thanh máu người nhận và ngược lại trộn hồng cầu người nhận với huyết thanh máu người cho. Các phản ứng trên không có hiện tượng ngưng kết hồng cầu thì máu đó mới được truyền.
Có một số tác giả đề nghị rằng, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, tốt nhất là truyền máu tự thân. Đối tượng được lấy máu lúc khoẻ mạnh và được bảo quản trong ngân hàng, khi cần thì lấy chính máu của họ truyền cho họ. Hiện nay chưa có điều kiện ký thuật để bảo quản máu được lâu (đặc biệt là các nước đang phát triển) cho nên điều này chưa thực hiện được. Để khắc phục tai biến truyền máu và tình trạng lây nhiễm bệnh qua truyền máu, các nhà khoa học đã nghiên cứu sản xuất ra máu nhân tạo để làm dịch truyền thay thế máu. Song phạm vi ứng dụng máu nhân tạo chưa được rộng rãi vì giá thành còn quá đắt.
Trong trường hợp cần truyền máu mà lại không có máu cùng nhóm, người ta có thể truyền theo một qui tắc tối thiểu: không để xảy ra ngưng kết hồng cầu của người cho trong máu của người nhận. Nếu để xảy ra tai biến này thì chỉ cần truyền nhầm 2ml máu đã có thể gây chết người do tắc mạch, rối loạn trao đổi khí của máu, tan máu, suy thận cấp... Như vậy có thể truyền máu khác nhóm, nhưng bắt buộc phải theo sơ đồ sau:
http://www.benhhoc.com/images.php?do=view&id=94
Nhóm O truyền được cho nhóm A,B và AB. Nhóm A và B truyền được cho nhóm AB. Nhóm AB không truyền được cho nhóm O, A và B. Trong trường hợp truyền máu khác nhóm như vậy, chỉ được truyền khoảng 250ml máu (một đơn vị máu), với tốc độ rất chậm. Tai biến do truyền máu rất khó xảy ra vì kháng thể trong máu người cho ngay lập tức bị pha loãng trong máu của người nhận do đó nồng độ kháng thể rất thấp. Các kháng thể này sau đó sẽ bị các enzym phân giải. Tuy vậy, ngày nay nhờ sự hiến máu nhân đạo được phổ cập nên sự truyền máu theo qui tắc tối thiểu ít được ứng dụng.
Đối với hệ thống Rh, kháng thể chống Rh chỉ hình thành ở người Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầu Rh+. Tỷ lệ Rh- của người Việt lại rất thấp, cho nên thực tế người ta chú ý hai trường hợp cần xét nghiệm nhóm máu hệ Rh đó là người đã được truyền máu nhiều lần và người phụ nữ có tiền sử xảy thai, đẻ non, đẻ con có hội chứng vàng da huỷ huyết. Việc xét nghiệm nóm máu hệ Rh cũng dựa trên kháng thể của huyết thanh mẫu để tìm kháng nguyên. Nếu người cần được truyền máu là Rh+ thì truyền máu Rh+ hoặc Rh- đều được. Nếu người cần được truyền máu là máu Rh- thì nhất thiết phải được truyền máu là Rh-.
^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
4.5. NHÓM MÁU VÀ SỰ TRUYỀN MÁU
-
Gồm các nội dung :
4.5.1. Các nhóm máu ở người
a/. Nhóm máu ABO
b/. Nhóm máu Rhejus
4.5.2. Cách xác định nhóm máu
4.5.3. Điều kiện cần thiết khi truyền máu4.5.1. Các nhóm máu ở ngườiTại sao lại có các nhóm máu khác nhau?Trong khi điều trị bệnh, người ta thường phải tiếp máu cho những bệnh nhân bị thiếu máu hoặc mất nhiều máu, nhưng không thể tiếp máu của bất kì người nào cũng được.Ý tưởng truyền máu vào mạch máu để cứu sống người bị mất máu do bị thương chỉ bắt đầu từ thế kỉ XVII. Trong suốt thế kỉ XVIII có nhiều thử nghiệm nhưng thường gặp tai biến gây chết người. Mãi đến năm 1901, Karl Landsteiner, nhà khoa học người Áo gốc Do Thái và cộng sự mới tìm ra nguyên nhân của các tai biến chết người đó là do sự kết dính các hồng cầu khi được truyền máu không đúng nhóm máu. Ông còn nhận thấy hiện tượng ngưng kết hồng cầu còn xảy ra khi trộn máu của các cá thể trong cùng một loài. Ðó là hiện tượng đồng ngưng kết. Từ đó Landsteiner tìm ra các kháng nguyên và các kháng thể đặc hiệu của nhóm hồng cầu và phân loại nhóm hồng cầu, gọi là nhóm máu. Dựa trên sự phân loại này người ta đề ra những qui luật chặt chẽ trong truyền máu.Trên màng hồng cầu người, người ta đã tìm ra khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên hiếm gặp khác. Hầu hết những kháng nguyên là yếu, chỉ được dùng để nghiên cứu di truyền gen và quan hệ huyết thống. Tuy nhiên có hai nhóm kháng nguyên đặc biệt quan trọng có thể gây phản ứng trong truyền máu đó là hệ thống kháng nguyên ABO và Rh.a/. Nhóm máu ABOTheo Karl Landsteiner, trên màng hồng cầu có những kháng nguyên gọi là ngưng kết nguyên. Có 2 loại ngưng kết nguyên A và B. Bản chất của ngưng kết nguyên là polysacarid có mặt trên bề mặt hồng cầu từ những giai đoạn sớm của bào thai. Ðồng thời trong huyết tương có những kháng thể đặc hiệu của nhóm máu, gọi là ngưng kết tố. Có 2 loại ngưng kết tố là α và β. Các ngưng kết tố này có khả năng làm kết dính (ngưng kết) hồng cầu khi A gặp α, hoặc B gặp β.Tùy theo trên màng hồng cầu có kháng nguyên A, B hoặc cả A và B hay không có kháng nguyên nào, Landsteiner phân thành 4 nhóm máu:Nhóm máuHồng cầu có
ngưng kết nguyên A hoặc BHuyết tương có
ngưng kết tố α hoặc βAAβBBαABA và B(không có)O(không có)α và βTỉ lệ các nhóm máu ABO phân bố không đều ở các vùng miền, ở các dân tộc. Kết quả nghiên cứu trên người Việt Nam cho thấy nhóm máu A chiếm tỉ lệ 19,8%, nhóm máu B: 28,8%, nhóm máu AB: 4,2%, nhóm máu O: 47,4%. Theo kết quả điều tra, thấy rằng tỉ lệ các nhóm máu giảm dần ở các vùng dân tộc: người Kinh: O → B → A → AB; người Dao, người Mông: O → A → B → AB; Người Êđê : B → A → O → ABNăm 1940, Landsteiner và Wiener, qua các công trình nghiên cứu của mình đã cho thấy: khi lấy máu của loài khỉ vàng Macacus Rhesus tiêm vào thỏ nhiều lần, kết quả là máu thỏ đã hình thành một hệ thống miễn dịch với hồng cầu của máu loài khỉ vàng. Sau đó đem trộn huyết thanh của thỏ đã được miễn dịch, với máu của khỉ vàng và cả với máu người đã lấy ra khỏi cơ thể, kết quả làm ngưng kết 85% số máu người được thử. Kháng nguyên phát hiện được gọi là yếu tố Rh. Những người có yếu tố Rh gọi là Rh(+), không có yếu tố Rh thì gọi là Rh(-). Nếu truyền máu của người có Rh(+) cho người có Rh- thì sẽ xảy ra ngưng kết vì máu của người Rh- sẽ sản sinh ra một loại kháng thể đặc biệt chống Rh(+).Sự khác nhau cơ bản giữa 2 hệ thống ABO và Rh là trong hệ thống ABO kháng thể được sinh ra một cách tự nhiên, trong khi kháng thể của hệ Rh được sinh ra theo kiểu miễn dịch, nghĩa là trong huyết tương không có sẵn kháng thể tương ứng. mà nó chỉ được tạo ra khi người không có Rh được truyền nhiều lần máu có Rh. Kháng thể phát triển chậm, khoảng 2 - 3 tháng sau khi nhận máu Rh(+) mới có phản ứng. Khi đã được tạo ra thì tính miễn dịch sẽ được tồn tại nhiều năm. Do đó, nếu 1 người Rh(-) chưa hề tiếp xúc với máu Rh(+) thì việc truyền máu sẽ không gây một phản ứng tức thời nào. Tuy nhiên nếu lần sau họ lại được truyền máu Rh(+) thì có thể xảy ra tai biến nghiêm trọng như ở hệ thống ABO.Cho đến nay người ta đã xác định được 6 kháng nguyên của hệ Rh là: C, D, E và c, d, e. Mỗi người sẽ có 1 trong 2 kháng nguyên của 3 cặp kháng nguyên kể trên. Chỉ có những kháng nguyên C, D, E mới có khả năng kích thích sinh kháng thể Anti Rh.Tai biến trong truyền máu theo hệ Rh thường gặp trong sản khoa nếu mẹ là Rh(-), bố là Rh(+). Khi người mẹ có thai, hồng cầu của bào thai sẽ là Rh(+) kích thích cơ thể mẹ sản xuất kháng thể anti Rh. Lần có thai đầu ít có tai biến cho thai nhi, nhưng lần sau, nếu thai vẫn là Rh(+) kháng thể anti Rh sẽ từ mẹ truyền qua con theo đường nhau thai và làm ngưng kết hồng cầu của thai. Tùy theo mức độ ngưng kết đưa đến sẩy thai hay thai chết lưu. Trong truyền máu thì lần đầu tiên không xảy ra tai biến gì, nhưng cơ thể người nhận sẽ sản xuất kháng thể gây tai biến ở những lần truyền sau. Ở người Việt Nam đa số là có Rh, chỉ có rất ít (0,05%) là không có Rh.Ngoài các hệ nhóm máu ABO và Rh thì trong máu của người còn có nhiều hệ nhóm máu khác nhau. Khi truyền máu thường thì các hệ này ít gây nguy hiểm nhưng chúng có ý nghĩa việc nghiên cứu về di truyền học và trong pháp y.Việc xác định nhóm máu được ứng dụng trong việc truyền máu. Để việc truyền máu diễn ra thành công, các nhóm máu ABO và Rh phải có sự tương thích giữa máu cho và máu nhận. Nếu không, các tế bào hồng cầu từ máu cho sẽ bị đông kết. Các tế bào hồng cầu bị đông kết sẽ bị vỡ và các chất trong đó sẽ tràn ra cơ thể. Trong tế bào hồng cầu có chứa các hemoglobin. Hemoglobin sẽ trở nên độc hại khi nằm bên ngoài tế bào hồng cầu. Điều này có thể dẫn đến tử vong cho người nhận máu. Như vậy để đảm bảo an toàn cho người cho và người nhận máu phải tránh sao cho kháng nguyên và kháng thể tương ứng không gặp nhau, nghĩa là phải lấy máu đúng nhóm truyền cho nhau. Hoặc trong một số trường hợp người ta có thể truyền máu khác nhóm với điều kiện đảm bảo sao cho hồng cầu người cho không bị ngưng kết bởi kháng thể trong huyết tương người nhận. Mặt khác việc truyền máu diễn ra rất chậm nên ngưng kết tố của người cho bị dòng máu của người nhận pha loãng ngay nên không gây ngưng kết hồng cầu của người nhận. Từ đó ta có thể tóm tắt nguyên tắc truyền máu theo sơ đồ sau đây: ……………Qua sơ đồ trên, ta thấy nhóm máu O là nhóm máu chuyên cho, nhóm máu AB là nhóm máu chuyên nhận.Vậy việc cho máu có hại hay không?Thấy rằng, nếu sau khi cho máu hợp lí (mỗi tháng 1 lần khoảng 200 – 250 ml và không quá 5 - 8 lần/ năm) và có sự bổ sung dinh dưỡng kịp thời thì có lợi cho sức khoẻ, vì nó kích thích sự sinh sản thêm hồng cầu mới.4.5.2. Cách xác định nhóm máu ở ngườiĐể xác định nhóm máu, người ta dùng các huyết thanh chuẩn. Huyết thanh là phần huyết tương không có fibrinozen. Ví dụ, để xác định nhóm máu ABO, người ta dùng 3 loại huyết thanh chuẩn là Anti A (chống A); Anti B (chống B), Anti AB (chống A,B). Trong huyết thanh AntiA có chứa ngưng kết tố α nên làm ngưng kết các hồng cầu có ngưng kết nguyên A. Trong huyết thanh Anti B có chứa ngưng kết tố β nên sẽ làm ngưng kết hồng cầu có ngưng kết nguyên B. Trong huyết thanh Anti AB có chứa cả hai loại ngưng kết tố α và β nên sẽ làm ngưng kết hồng cầu có ngưng kết nguyên A và B.Người ta nhỏ 1 giọt máu muốn xác định vào 3 giọt huyết thanh chuẩn đã được nhỏ sẵn trên một phiến kính và dùng đũa thuỷ tinh riêng cho mỗi loại, quấy nhẹ. Sau vài phút, nếu ở cả 3 giọt huyết thanh máu không bị ngưng kết thì máu đem xác định là máu nhóm O. Nếu máu bị ngưng kết ở cả 3 giọt huyết thanh thì máu đem xác định là máu nhóm AB. Nếu máu chỉ bị ngưng kết ở giọt huyết thanh Anti A và Anti AB thì máu đem xác định là máu nhóm A. Nếu máu chỉ bị ngưng kết ở giọt huyết thanh Anti B và Anti AB thì máu đem xác định là máu nhóm B.4.5.3. Các điều kiện cần thiết khi truyền máu- Phải tiến hành xét nghiệm máu để xác định nhóm máu và loại bỏ máu nhiễm bệnh (sốt rét, viêm gan B, HIV ...)- Phải đảm bảo vô trùng và các tiêu chuẩn kĩ thuật khi tiến hành truyền máu. Truyền máu giữa những người cùng huyết thống thì tốt hơn do hạn chế được những khác biệt các yếu tố trong máu. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Hệ thống nhóm máu ABO: Năm 1901, bác học Landsteiner phát hiện ra hiện tượng: huyết thanh của người này làm ngưng kết hồng cầu của người kia và ngược lại. Sau đó các nhà khoa học đã tìm được kháng nguyên A và kháng nguyên B có mặt trên màng hồng cầu, còn kháng thể a và kháng thể b có mặt trong huyết tương. Kháng thể a sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên A, kháng thể b sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên B. Do cơ thể có trạng thái dung nạp với kháng nguyên bản thân nên trong huyết tương không bao giờ có kháng thể chống lại kháng nguyên có trên bề mặt hồng cầu của chính mình. Dựa vào kháng nguyên có trên bề mặt hồng cầu, người ta chia ra 4 nhóm máu là: A, B, AB và O. Người nhóm máu A có kháng nguyên A trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể b trong huyết tương. Người nhóm máu B có kháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể a trong huyết tương. Người có nhóm máu AB có kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu và không có kháng thể a và b trong huyết tương. Người có nhóm máu O không có kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu, nhưng trong huyết tương có cả kháng thể a và b. Các kháng thể a và b là những kháng thể tự nhiên trong huyết thanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét