Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

HUYẾT THANH, HUYẾT TƯƠNG; MÁU - NHÓM MÁU

Trả lời của phòng mạch online:
Máu được chia làm 2 phần: Phần hữu hình và vô hình.
Phần hữu hình là 3 loại tế bào nhìn thấy được dưới kính hiển vi. Đó là: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
Phần không nhìn thấy dưới kính hiển vi là huyết tương, có màu vàng trong chứa các chất vô cơ như các ion kali, natri, can xi. magnesie, phospho...Các chất hữu cơ như protein, cacbohydrate, acid béo, fibirinogen...
Bạn để một giọt máu lên lam kính. Chừng 5-7 phút sau cục máu đông lại. Đó là do các sợi fibrin tạo thành một lưới giam hãm các huyết cầu tạo thành cục máu đông. Bạn lại nhìn thấy một chút nước màu vàng nhạt rỉ ra ở cục máu đông. Đó là huyết thanh.
Những chất có độ pH giống như máu được gọi là huyết thanh. Ví dụ: huyết thanh ngọt 5% chứa 5g gluco trong 100 ml nước, huyết thanh mặn chứa 0,9% natriclorure dùng để truyền cho những người bị tiêu chảy, mất nước và mất muối.
Bản thân huyết thanh là từ thông dụng, nó không bao hàm ý nghĩa bệnh tật. Vì thế bạn hỏi"có nguy hiểm gì không" tức là bạn chưa hiểu hoặc bác sĩ ghi "huyết thanh đục" muốn chỉ lượng triglycerid (một loại mỡ trong máu) tăng làm cho huyết thanh không trong nữa mà bị đục.
TS LÊ THÚY TƯƠI
  '''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''^^^^^^^^^^^^^^^^^"""""""""""""""""""""""
Máu của chúng ta có 2 thành phần cơ bản :huyết cầu bao gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Phần thứ hai huyết tương. Huyết tương chất lỏng có màu nhạt, nó chứa 91% nước, 7% protein (albumin, globulin, prothrombin, fibrinogen). Huyết tương chứa một số muối hòa tan(natriclorua, bicacbonate, phosphate...). Huyết tương có độ kiềm nhẹ với độ pH khoảng 7,3. Huyết tương nơi hoà tan các chất dinh dưỡng, các chất khi để vận chuyển từ nơi này đến nơi kia của cơ thể.

Huyết thanh huyết tương đã loại chất chống đông. Người ta còn dùng "huyết thanh" để chỉ những dung dịch có thể truyền vào máu nhằm bù một số chất bị thiếu hụt. Thí dụ: huyết thanh ngọt muốn chỉ dung dịch glucose 5% hay 20%, huyết thanh mặn bù muối trong trường hợp tiêu chảy dung dịch Natriclorua 0,9%, nếu cần bù nhiều nguyên tố vi lượng người ta dùng dung dịch Lactate ringer...
Máu bị nhiễm trùng thì gọi "nhiễm trùng huyết" vì trong đó bao hàm cả huyết tương, huyết thanh. Còn nhiễm trùng huyết thanh muốn chỉ chai dịch truyền ấy bị nhiễm trùng, không nên truyền. Câu hỏi của bạn không rõ ràng "bạn của cháu bị nhiễm trùng huyết thanh". Nếu đó nhiễm trùng huyết thì sốt cao, lạnh run và phải cấp cứu, truyền kháng sinh qua đường tĩnh mạch may mới thoát khỏi thần chết. Nếu đi chơi với nhau mà bảo "nhiễm trùng huyết thanh" thì chắc ...nói đùa cho vui thôi.

---------------------------------------------------------------------------------

NHÓM MÁU VÀ TRUYỀN MÁU
1. NHÓM MÁU.
Sự hiểu biết về kháng nguyên nhóm máu là vô cùng cần thiết cho công tác truyền máu. Truyền máu đã được áp dụng từ lâu trong cấp cứu và điều trị. Khi truyền máu đã gặp nhiều tai biến rất nguy hiểm, mặc dù truyền máu lần đầu.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rằng nguyên nhân tai biến là do sựmặt cuả kháng thể tự nhiên trong cơ thể. Các kháng thể này chống lại các kháng nguyên với tính miễn dịch cao trên bề mặt hồng cầu.
Trên bề mặt hồng cầu ngườinhiều kháng nguyên khác nhau người ta đã tìm được khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên khác nhưng đều là kháng nguyêntính miễn dịch yếu, thường chỉ dùng để nghiên cứu gen. Các kháng nguyên xếp thành hệ thống các nhóm máu AB0, Rh, Lewis, MNSs, P, Kell, Lutheran, Duffy, Kidd... Trong số nàyhai hệ thống nhóm máu AB0 và Rh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong truyền maú.
1.1. Hệ thống nhóm máu ABO.
Năm 1901, Landsteiner phát hiện ra hiện tượng: huyết thanh của người này làm ngưng kết hồng cầu của người kia và ngược lại. Sau đó nguời ta đã tìm được kháng nguyên A và kháng nguyên B, kháng thể a( chống A) và kháng thể b ( chống B).
Kháng nguyên A và Bmặt trên màng hồng cầu; kháng thể a và bmặt trong huyết tương. Kháng thể a sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên A, kháng thể b sẽ làm ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên B.
Do cơ thểtrạng thái dung nạp với kháng nguyên bản thân, nên trong huyết tương không bao gờikháng thể chống lại kháng nguyêntrên bề mặt hồng cầu của chính cơ thể đó. Từ đó hệ thống nhóm máu ABO được chia làm 4 nhóm: nhóm A, nhóm B, nhóm AB và nhóm O. Ký hiệu nhóm máu biểu thị sựmặt của kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu.
Cơ thể nhóm máu Akháng nguyên A trên bề mặt hồng cầu vàkháng thể b (chống B) trong huyết tương .
Cơ thể nhóm máu Bkháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu vàkháng thể a (chống A) trong huyết tương
Cơ thể nhóm máu ABkháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu và khôngkháng thể a và b trong huyết tương.
Cơ thể nhóm máu 0 khôngkháng nguyên Avà B trên bề mặt hồng cầu, trong huyết tươngcả kháng thể a và b.
Người ta cũng biết rằng các kháng thể a và b là những kháng thể xuất hiện tự nhiên trong huyết thanh. Sự phân bố các kháng nguyên, kháng thể thuộc hệ thống nhóm máu AB0 như sau:

Genotypes
Nhóm máu
Kháng nguyên
Kháng thể
Tỷ Lệ %




Người da trắng
Người Việt
00
0A hoặcAA
0B hoặc BB
AB
0
A
B
AB
-
A
B
A và B
a và b
b
a
-
47
41
9
3
43
21,5
29,5
6
Nhóm A được chia thành hai phân nhóm A1 và A2. Vì vậy số lượng nhóm máu đã trở thành 6 nhóm: A1, A2, B, A1B, A2B và 0. Một số ngườikháng nguyên A1,kháng thể chống A2. Một số ngườikháng nguyên A2,kháng thể chống A1. Các kháng thể này yếu nên ít gây nguy hiểm, nhưng trong thực tếthể gây tai biến nghiêm trọng khi truyền nhóm máu A2 nhầm tưởng là nhóm máu 0 và nhóm máu A2B nhầm tưởng là nhóm B cho bệnh nhân nhóm máu B.
Các kháng nguyên thuộc hệ ABO do một locus kiểm soát với 3 alen AB0 trong đó A và B là trội. Việc phát hiện ra cấu trúc kháng nguyên nhóm máu thuộc hệ AB0 đã làm thay đổi quan niệm trước đây cho rằng: kháng nguyên A là sản phẩm trực tiếp của gen A, kháng nguyên B là sản phẩm trực tiếp của gen B. Người ta cho rằng tham gia hình thành kháng nguyên nhóm máu trong hệ AB0các hệ gen Hh và hệ thống gen AB0. Các hệ thống gen này di truyền độc lập. Ngườinhóm máu 0 chỉgen H mà khônggen A và B nên khôngenzym biến chất H thành kháng nguyên A hoặc B, do đó chỉ chất H chiếm toàn bộ bề mặt hồng cầu. Ngườinhóm máu Acả gen H và gen A nênenzym biến chất H thành kháng nguyên A do đó trên bề mặt hồng cầucả chất H và cả kháng nguyên A. Với sự giải thích tương tự, ngườinhóm máu B, trên bề mặt hồng cầucả chất H và kháng nguyên B. Ngườinhóm máu AB, trên bề mặt hồng cầucả chất H, kháng nguyên A và kháng nguyên B.
Đại bộ phận người làgen H. Một số ít người khônggen H (cơ thể đồng hợp tử hh), không chất H trên bề mặt hồng cầu. Người khônggen H, dùgen A hoặc gen B thì cũng khôngkháng nguyên A hoặc kháng nguyên B, vì các kháng nguyên này chỉ xuất hiện từ chất H. Khi thử máu bằng kỹ thuật ngưng kết, người khônggen H đều được ghi nhận là nhóm máu O, nhưng họ (cơ thể đồng hợp tử hh)thể tạo ra kháng thể chống H khi truyền máu của người nhóm máu O thật sự (chất H) vì thếthể gây tai biến. Người nhóm máu này được gọi là nhóm máu O Bombay.
Đa số người (80%), kháng nguyên nhóm máu cònmặt trong các dịch tiết: nước bọt, dịch vị...
Ngay sau khi ra đời, kháng thểnồng độ rất thấp. Từ tháng thứ 2 trở đi, kháng thể tăng dần lên và cao nhất từ 8 -10 tuổi, sau đó giảm dần trở về bình thường ở tuổi trưởng thành rồi giảm dần theo tuổi tác. Kháng thể là g globulin, hầu hết là IgM, sau đó là IgG. Giống các kháng thể miễn dịch khác IgM và IgG cũng do các lympho bào sản xuất.
1.2. Hệ thống nhóm máu Rh.
Năm 1940 Landsteiner và Wiener nhận thấy: nếu lấy hồng cầu khỉ Macacus Rhesus gây miễn dịch cho thỏ thì huyết thanh miễn dịch thỏ ngoài việc gây ngưng kết hồng cầu khỉ còn gây ngưng kết hồng cầu người. Lúc đầu xếp những ngườihồng cầu bị ngưng kết bởi huyết thanh này vào nhóm Rh+ những ngườihồng cầu không bị ngưng kết vào nhóm Rh-. Nhưng sau này thấy hệ thống kháng nguyên Rh không đơn giản như vậy. Trong hệ thống Rhnhiều kháng nguyên, phần lớn chúng tính phản ứng chéo và sinh miễn dịch yếu. Do đó kháng thể không gây ngưng kết mạnh như hệ thống AB0.
Kháng nguyên hệ Rh phân bố thưa thớt trên bề mặt hồng cầu.3 loại kháng nguyên chính: kháng nguyên D (Rh0), kháng nguyên C (Rh'), kháng nguyên E (Rh''). Chỉkháng nguyên D tính kháng nguyên mạnh vàtính sinh miễn dịch cao. Vì vậy khi kháng nguyên D thì được gọi là Rh+. Những nhóm máu khác thuộc hệ Rh đềutính kháng nguyên rất yếu, ít được chú ý như Rh1, Rh2, Rhz, Rhy, rh. Tỷ lệ Rh+ của người da trắng là 85%, người Mỹ da đen là 95%, người Phi da đen là 100%, người Việt là 99,92%. Nói một cách khác là tỷ lệ Rh- của người Việt là 0,08% gần như không đáng kể.
Kháng nguyên hệ thống nhóm máu Rh là di truyền, còn kháng thể chống Rh chỉ xuất hiện ở cơ thể Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầukháng nguyên D (Rh+ ). Kháng thể này thường là IgG. Nếu một người Rh- , chưa hề được truyền máu Rh+ bao giờ thì việc truyền máu Rh+ cho họ sẽ không bao giờ xảy ra phản ứng tức thì nào. Tuy nhiên sau khi truyền máu Rh+ từ 2-4 tuần sau, lượng kháng thể chống Rh đã tương đối cao đủ để gây ngưng kết hồng cầu Rh+ của người cho vẫn tồn tại trong máu người nhận. Phản ứng này chậm và rất nhẹ. Sau 2-4 tháng truyền máu Rh+, nồng độ kháng thể chống Rh trong máu người Rh- mới đạt tối đa. Nếu truyền máu Rh+ cho những người này ở lần thứ 2,thể gây ra tai biến truyền máu nặng, chẳng kém gì tai biến như hệ AB0. Sau vài lần truyền máu Rh
+ cho người Rh-, người Rh- trở nên rất mẫn cảm với kháng nguyên Rh, tai biến khi truyền máu là cực kỳ nguy hiểm. Đó là lý do tại sao ta phải cần lưu ý tới người đã được truyền máu nhiều lần. Cần phải xác định nhóm máu hệ Rh cho họ, sợ rằng họ là người Rh-.
Trường hợp thứ hai là người mẹ Rh-, bố Rh+. Đứa trẻ được di truyền Rh+ từ bố. Hồng cầu Rh+ của thai và sản phẩm phân huỷ hồng cầu Rh+ của thai sang máu mẹ. Người mẹ sẽquá trình tạo kháng thể chống Rh, các kháng thể này qua nhau thai làm ngưng kết hồng cầu thai. Nếu người mẹthai lần đầu thì cơ thể người mẹ chưa sản xuất đủ kháng thể để gây nguy hiểm cho thai nhi. Khoảng 30% số thai thứ hai Rh+ triệu chứng tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết và tỷ lệ mắc bệnh tăng dần lên và triệu chứng bệnh cũng nặng hơn cho những thai sau.
Nhiều người bố Rh+ dị hợp tử, do đókhoảng 25% số con cái là Rh-. Vì vậy sau khi đẻ đứa con trước bị vàng da huỷ huyết, tăng nguyên hồng cầu, không nhất thiết đứa trẻ sau cũng bị bệnh này. Những đứa trẻ mắc bệnh tăng nguyên hồng cầu bào thai thấy các mô sinh máu đều tăng sinh hồng cầu; gan, lách to ra và sản xuất hồng cầu kỳ bào thai. Hồng cầu này xuất hiện nhiều trong máu. Trẻ thường chết do thiếu máu nặng. Nếu sống sót trẻ thường thiếu trí tuệ, tổn thương vỏ não vận động do lắng đọng bilirubin trong các neuron. Cũngthể kháng thể chống Rh còn tấn công một số tế bào khác của cơ thể.
Trường hợp thứ hai mà ta cần lưu ý trên đây chính là người phụ nữtiền sử sảy thai, đẻ non, đẻ contăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết. Những người này nếu cần truyền máu, phải xét nghiệm nhóm máu Rh. Người ta sợ rằng người mẹ này máu Rh- và trong máu đãkháng thể chống Rh. Nếu truyền máu Rh+ cho họ thì sẽ tai biến rất nguy hiểm xảy ra.
1.3. Các hệ thống nhóm máu khác.
Trong các hệ thống nhóm máu còn lại thì hệ Kell chiếm vị trí hàng đầu. Kháng nguyên Kell rất nguy hiểm. Năm 1947 người ta đã phát hiện tai nạn do kháng nguyên này gây ra, từ đó về sau tai nạn do kháng nguyên này vẫn được theo dõi.
Kháng nguyên Fya thuộc hệ Duffy cũng được quan tâm. 1950 lần đầu tiên Mollison phát hiện kháng thể chống Fya trong huyết tương bệnh nhân bị tan máu được truyền máu nhiều lần. Trong vòng 20 năm đó người ta đã miêu tả nhiều trường hợp tương tự. Năm 1951 một tai biến chết người do Fya.
Kháng nguyên S thuộc hệ MNSsthể gây ra miễn dịch sau truyền máu và xuất hiện tai nạn tan máu.
Những kháng thể lạnh đặc hiệu tự nhiên như kháng thể chống Lea , Leb (thuộc hệ Lewis), M, N, P chỉ gây ra phản ứng ở một nhiệt độ nhất định và không nguy hiểm.
2. TRUYỀN MÁU.
Trong thực hành truyền máu, ngoài những qui định về những xét nghiệm phát hiện các virut lây theo đường máu, về kỹ thuật bảo quản... chúng ta cần phải thực hiện đúng qui tắc về nhóm máu, qui tắc cơ bản là: không để kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau trong máu người nhận. Đối với hệ thống nhóm máu ABO, thoả mãn qui tắc trên là phải truyền cùng nhóm.

Dựa vào kháng thể đã biết của huyết thanh mẫu (antiA, antiB, antiAB) người ta xác định chính xác kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu. Đồng thời với việc xác định nhóm máu thuộc hệ ABO, cần phải làm các phản ứng chéo: trộn hồng cầu người cho với huyết thanh máu người nhận và ngược lại trộn hồng cầu người nhận với huyết thanh máu người cho. Các phản ứng trên khônghiện tượng ngưng kết hồng cầu thì máu đó mới được truyền.
một số tác giả đề nghị rằng, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, tốt nhất là truyền máu tự thân. Đối tượng được lấy máu lúc khoẻ mạnh và được bảo quản trong ngân hàng, khi cần thì lấy chính máu của họ truyền cho họ. Hiện nay chưa điều kiện ký thuật để bảo quản máu được lâu (đặc biệt là các nước đang phát triển) cho nên điều này chưa thực hiện được. Để khắc phục tai biến truyền máu và tình trạng lây nhiễm bệnh qua truyền máu, các nhà khoa học đã nghiên cứu sản xuất ra máu nhân tạo để làm dịch truyền thay thế máu. Song phạm vi ứng dụng máu nhân tạo chưa được rộng rãi vì giá thành còn quá đắt.
Trong trường hợp cần truyền máu mà lại không máu cùng nhóm, người ta thể truyền theo một qui tắc tối thiểu: không để xảy ra ngưng kết hồng cầu của người cho trong máu của người nhận. Nếu để xảy ra tai biến này thì chỉ cần truyền nhầm 2ml máu đãthể gây chết người do tắc mạch, rối loạn trao đổi khí của máu, tan máu, suy thận cấp... Như vậythể truyền máu khác nhóm, nhưng bắt buộc phải theo sơ đồ sau:
http://www.benhhoc.com/images.php?do=view&id=94

Nhóm O truyền được cho nhóm A,B và AB. Nhóm A và B truyền được cho nhóm AB. Nhóm AB không truyền được cho nhóm O, A và B. Trong trường hợp truyền máu khác nhóm như vậy, chỉ được truyền khoảng 250ml máu (một đơn vị máu), với tốc độ rất chậm. Tai biến do truyền máu rất khó xảy ra vì kháng thể trong máu người cho ngay lập tức bị pha loãng trong máu của người nhận do đó nồng độ kháng thể rất thấp. Các kháng thể này sau đó sẽ bị các enzym phân giải. Tuy vậy, ngày nay nhờ sự hiến máu nhân đạo được phổ cập nên sự truyền máu theo qui tắc tối thiểu ít được ứng dụng.
Đối với hệ thống Rh, kháng thể chống Rh chỉ hình thành ở người Rh- khi được miễn dịch bằng hồng cầu Rh+. Tỷ lệ Rh- của người Việt lại rất thấp, cho nên thực tế người ta chú ý hai trường hợp cần xét nghiệm nhóm máu hệ Rh đó là người đã được truyền máu nhiều lần và người phụ nữtiền sử xảy thai, đẻ non, đẻ conhội chứng vàng da huỷ huyết. Việc xét nghiệm nóm máu hệ Rh cũng dựa trên kháng thể của huyết thanh mẫu để tìm kháng nguyên. Nếu người cần được truyền máu là Rh+ thì truyền máu Rh+ hoặc Rh- đều được. Nếu người cần được truyền máu máu Rh- thì nhất thiết phải được truyền máu là Rh-.

^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
4.5.  NHÓM MÁU VÀ SỰ TRUYỀN MÁU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét