Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

GIẢI PHẪU - SINH LÝ - BỆNH LÝ GAN


Gan người trưởng thành thường nặng 1,4 - 1,6 kg, mềm, có màu đỏ sẫm.  
-  Là một cơ quan nội tạng lớn nhất đồng thời một tuyến lớn nhất trong cơ thể. 
-  Gan nằm ngay dưới cơ hoành (hoành cách mô) ở phần trên, bên phải của ổ bụng. Gan nằm về phía bên phải của dạ dày (bao tử) và tạo nên giường túi mật.
Gan được cc máu bởi 2 mạch chính ở thùy phải: động mạch gantĩnh mạch cửa (tĩnh mạch gánh). (Ly: ĐM gan, TM cửa đi vào gan để cấp máu cho gan, nơi đi vào của ĐM gan, TM cửa gọi là rốn gan, máu từ gan theo TM gan đổ vào TM Chủ dưới)
(Ly: ĐM gan cấp máu cho gan, và tĩnh mạch cửa cấp máu cho gan)
Động mạch gan thường bắt nguồn từ động mạch thân tạng.
Tĩnh mạch cửa dẫn lưu máu từ lách, tụyruột non (đến gan) nhờ đó mà gan có thể tiếp cận được nguồn dinh dưỡng cũng như các sản phẩm phụ của quá trình tiêu hóa thức ăn. Các tĩnh mạch gan dẫn lưu máu từ gan và đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới.
(Ly: máu từ gan theo TM gan để đổ vào TM Chủ dưới)
Mật sản xuất trong gan được tập trung tại các tiểu quản mật. Các tiểu quản này sẽ hội lưu với nhau tạo thành ống mật. Các ống mật sẽ đổ về ống gan trái hoặc ống gan phải. Hai ống gan này cuối cùng sẽ hợp nhất thành ống gan chung. Ống cổ túi mật (nối túi mật) vào ống gan chung] và hình thành ống mật chủ.
(Cài hình ảnh ống gan trái, ống gan phải, ống gan chung – túi mật - ống mật chủ)
Mật có thể đổ trực tiếp từ gan vào tá tràng thông qua ống mật chủ hoặc tạm thời được lưu trữ trong túi mật thông qua con đường ống cổ túi mật.
Ống mật chủống tụy đổ vào tá tràng ở bóng Vater.
(Lưu hình ở đây)
Gan là một trong số ít nội tạng của cơ thể có khả năng tái tạo lại một lượng nhu mô bị mất. Nếu khối lượng gan mất dưới 25% thì gan có thể tái tạo hoàn toàn. Điều này là do tế bào gan có khả năng đặc biệt như là một tế bào mầm đơn thẩm quyền (nghĩa là tế bào gan có thể phân đôi thành hai tế bào gan).

Giải phẫu bề mặt

Trừ nơi gan được nối vào cơ hoành thì toàn bộ bề mặt gan được bao phủ bởi lớp phúc mạng tạng, một lớp màng kép, mỏng có tác dụng làm giảm ma sát giữa các cơ quan với nhau. Phúc mạng này tạo nên các dây chằng liềm và dây chằng tam giác. Các "dây chằng" này không giống như các dây chằng thực sự ở các khớp và không có chức năng quan trọng nhưng nó lại là những mốc giải phẫu bề mặt giúp nhận biết trong quá trình phẫu thuật.
Về mặt giải phẫu đại thể, gan có thể được chia thành bốn thùy dựa trên các đặc điểm bề mặt. Dây chằng liềm có thể nhìn thấy ở mặt trước của gan chia gan thành hai phần: thùy gan trái và thùy gan phải.
Nếu nhìn từ mặt sau (hay mặt tạng) thì gan còn có hai thùy phụ nằm giữa thùy gan phải và thùy gan trái. Đây là các thùy đuôi (nằm phía trên) và thùy vuông (nằm phía dưới).

Giải phẫu chức năng

Đối với phẫu thuật cắt gan thì việc hiểu cặn kẽ cấu trúc của gan dựa trên hệ thống cung cấp máu và dẫn lưu mật có vai trò sống còn.
Vùng trung tâm, nơi OMC, TM cửa và ĐM gan đi vào gan được gọi là "rốn" gan.
(Ly: hệ thống cửa – chủ)

Sinh lý

Chức năng của gan được thực hiện bởi tế bào gan.
Hiện tại, không có một cơ quan nhân tạo nào có thể đảm trách được toàn bộ chức năng vô cùng phức tạp của gan. Chỉ một số chức năng có thể thực hiện được thông qua con đường nhân tạo như thẩm phân gan trong điều trị suy gan.

(tìm hiểu thẩm phân gan là gì?)

Bệnh lý

Rất nhiều bệnh lý của gan có biểu hiện triệu chứng vàng da do sự tăng cao nồng độ bilirubin trong máu. Bilirubin là sản phẩm của quá trình giáng hóa (Ly: phân giải) hemoglobin từ những tế bào hồng cầu chết. Thông thường thì gan loại bỏ bilirubin ra khỏi dòng máu và tiết vào ruột theo mật. (Ly: HC sống 120 ngày, HC chết, phóng thích ra hemoglobin à giải phóng Bilirubin)
Cũng có nhiều bệnh lý nhi khoa liên quan đến gan như teo đường mật bẩm sinh, thiếu alpha-1 antitrypsin, hội chứng Alagilleứ mật trong gan tuần tiến có tính chất gia đình.
Một số xét nghiệm chức năng gan nhằm đánh giá chức năng gan. Các xét nghiệm này khảo sát sự hiện diện của một số enzyme trong máu mà bình thường chúng hiện diện với mức độ lớn trong gan.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét